TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B - TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 270/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 276/2021/TLST-HS, ngày 27 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2021/QĐXXST – HS, ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Lò Văn N; Tên gọi khác: Không, sinh năm: 1981, Tại: huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Cư trú tại: Bản H C 1, xã M P, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Khơ Mú; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Lò Văn O, sinh năm 1940 ( đã chết) và bà Lò Thị H, sinh năm 1941; Bị cáo có vợ: Lò Thị Q, sinh năm 1985 và 05 người con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền sự: Không;
Tiền án: Không; tạm giữ từ ngày 27 tháng 6 năm 2021, tạm giam từ ngày 30 tháng 6 năm 2021 cho đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 27 tháng 6 năm 2021, Tổ công tác, Công an xã M P, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên phối hợp với Đồn Biên phòng M P phát hiện Lò Văn N có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra, phát hiện túi quần bên phải của N có 01 gói được gói bằng nilon màu xanh, khi mở ra bên trong có 02 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Tổ công tác, Công an xã M P huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói bên trong có 02 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp.
Trong quá trình điều tra, Lò Văn N khai nhận: khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 27/ 6/2021, N đi bộ từ nhà ở bản H C 1, xã M P, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đến khu vực đầu bản H C 1, xã M P, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thì N vào nhà chị Lò Thị B; N đã mua của chị Lò Thị B 01 gói được gói bằng nilon màu xanh bên trong có 02 viên Hồng phiến với giá 100.000 đồng; N cất 01 gói được gói bằng nilon màu xanh bên trong có 02 viên Hồng phiến vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà, đi được một đoạn thì bị Công an xã M P huyện Đ B phối hợp với Đồn Biên phòng M P phát hiện bắt quả tang.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 27/6/2021 thì vật chứng thu giữ của Lò Văn N gồm: 02 viên nén màu hồng có khối lượng: 0,2g, đồng thời lấy 0,1g làm mẫu gửi giám định; bản kết luận giám định số: 757/GĐ – PC09, ngày 05/7/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,2 gam là Methamphetamine.
Cáo trạng số 223/CT – VKSĐB, ngày 26/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Lò Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Lò Văn N thành khẩn, khai nhận: Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 27/6/2021, N đang tàng trữ trái phép: 0,2 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác, Công an xã M P huyện Đ B phối hợp với Đồn Biên phòng M P bắt quả tang như nội dung Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lò Văn N từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 0,1g Methamphetamine. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Lời nói sau cùng, Lò Văn N thừa nhận phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tội danh: Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn N đã thành khẩn thừa nhận vào hồi 11 giờ 30 phút, ngày 27/ 6/2021 đang tàng trữ trái phép 02 viên nén màu hồng có khối lượng là: 0,2g Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác, Công an xã M P phối hợp với Đồn Biên phòng M P huyện Đ B bắt quả tang. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 27/ 6/2021 và kết luận giám định số: 757/GĐ – PC09, ngày 05/7/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 0,2g là Methamphetamine và biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 40 phút, ngày 27/ 6/2021 đối với Lò Văn N. Do đó, hành vi của Lò Văn N tàng trữ trái phép: 0,2g Methamphetamine với mục đích để sử dụng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Lò Văn N đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".
Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình gây ra cho xã hội.
[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hiểm lớn cho xã hội, được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra cho xã hội.
[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã tiếp tay cho tội phạm mua bán trái phép chất ma túy và làm phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm dăn đe và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không đi học mà ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình; do nhận thức có giới hạn về ma túy nên đã mắc vào tệ nạn nghiện ma túy, xong chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, nhằm sau này trở thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Ngoài hình phạt chính, qua xác minh thì bị cáo thực sự khó khăn không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[ 6] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy: 0,2g Methamphetamine đã trích mẫu giám định là 0,1g không hoàn lại, còn lại 0,1g Methamphetamine thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[ 7] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.
[ 8] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, Q định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[ 9] Về án phí: Bị cáo Lò Văn N thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử xem xét miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[ 10] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[ 11] Quá trình điều tra, Lò Thị Bình không thừa nhận bán ma túy cho Lò Văn N và không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Xử phạt: Lò Văn N 15( Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2021.
3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy: 0,1g Methamphetamine.
4. Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 270/2021/HS-ST ngày 20/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 270/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về