Bản án 269/2020/DS-PT ngày 03/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 269/2020/DS-PT NGÀY 03/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 283/2020/TLPT-DS ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 132/2020/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 250/2020/QĐ-PT ngày 26 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị H, sinh năm 1969 (Có mặt) - Bị đơn: Bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1970 (Có mặt) Cùng địa chỉ cư trú: Khóm 3, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn thời, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị T là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Bà Trịnh Thị H trình bày: Ngày 19/02/2019 (âm lịch) bà có cho bà Huỳnh Thị T vay số tiền 200.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 5%/tháng, hẹn tháng sau thanh toán. Sau khi vay tiền thì bà T đóng lãi được 03 tháng thì ngưng đến nay.

Nay bà yêu cầu bà T thanh toán tiền vốn cho bà 200.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi nếu bà T yêu cầu đối trừ phần lãi đã đóng thì bà cũng đồng ý và bà yêu cầu tính lãi theo lãi suất nhà nước quy định.

Bà Huỳnh Thị T trình bày: Bà thừa nhận năm 2017 bà có vay của bà Trịnh Thị H nhiều lần, đến tháng 02/2019 (âm lịch) kết toán, cộng chung các khoản vay bà nợ bà H 200.000.000 đồng, đã thanh toán lãi suất theo thỏa thuận cho bà H ở mức 5%/tháng đến tháng 09/2019 (âm lịch). Sau tháng 9/2019 (âm lịch) làm ăn thất bại, mẹ chồng bệnh nặng bà phải đi nuôi bệnh nên không thanh toán tiếp tiền vay cho bà H như thỏa thuận.

Nay bà đồng ý thanh toán cho bà H nợ vay 200.000.000 đồng nhưng cho bà trả dần mỗi tháng từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đến khi hết nợ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số:132/2020/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H.

Buộc bà Huỳnh Thị T phải trả cho bà Trịnh Thị H tiền vay cả vốn và lãi bằng 209.566.000 đồng (Hai trăm lẽ chín triệu năm trăm sáu mươi sáu ngàn đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/9/2020, bà Huỳnh Thị T có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận đối trừ phần lãi bà đã đóng cho bà H.

Phần tranh luận tại phiên toà: Bà T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và bà xin trả dần mỗi tháng từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng cho bà H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Nội dung vụ án bị đơn thừa nhận biên nhận nợ do bị đơn ký tên nhưng bị đơn cho rằng có đóng lãi từ năm 2017 đến tháng 9/2019 nên yêu cầu đối trừ, nhưng bị đơn không có gì chứng minh có việc đóng lãi và việc bị đơn xin trả dần số tiền nợ, đây là thẩm quyền của cơ quan thi hành án nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Bà Huỳnh Thị T kháng cáo chấp nhận thanh toán nợ vay cho bà H theo biên nhận đã ký nhưng phải đối trừ nợ lãi bà đã đóng cho bà H và cho bà trả dần số tiền trên. Xét đơn kháng cáo của bà T, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[2] Giao dịch vay tài sản giữa bà Trịnh Thị H và bà Huỳnh Thị T là thực tế có diễn ra, việc vay nợ có làm biên nhận và có thỏa thuận lãi suất, các đương sự thống nhất nhau.

Các đương sự không thống nhất về thời gian vay tiền và số tiền lãi đã đóng. Bà T cho rằng bà vay từ năm 2017 đến năm 2019 mới viết biên nhận và trong thời gian vay tiền bà đóng lãi đầy đủ đến tháng 9/2019 nhưng cụ thể bao nhiêu tiền lãi thì bà không nhớ. Bà H chỉ thừa nhận có nhận lãi của bà T là 30.000.000 đồng, bà T cũng không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh đã đóng lãi cho bà H nhiều hơn 30.000.000 đồng.

[3] Đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ thể hiện: một biên nhận nợ ghi ngày 19/02/2019 do bà Huỳnh Thị T ký tên. Bà T thừa nhận chữ ký trong biên nhận trên là của bà T. Ngoài ra không còn tài liệu chứng cứ nào khác có thể hiện bà T đã đóng lãi cho bà H. Do đó án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H buộc bà T thanh toán cho bà H số tiền là 209.566.000 đồng tiền vốn và lãi là có căn cứ.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T yêu cầu đối trừ số tiền lãi bà đã đóng cho bà H từ năm 2017 đến tháng 9/2019 âm lịch nhưng bà T không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh có đóng lãi cho bà H nhiều hơn 30.000.000 đồng và số tiền đã đóng lãi bao nhiêu bà tích không nhớ rõ nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T. Đối với việc bà xin trả dẫn số tiền nợ cho bà H đây là giai đoạn thi hành án. Do đó, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp.

[5] Án phí phúc thẩm: Bà T phải chịu theo định.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Huỳnh Thị T.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 132/2020/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị H.

Buộc bà Huỳnh Thị T phải trả cho bà Trịnh Thị H tiền vay cả vốn và lãi bằng 209.566.000 đồng (Hai trăm lẽ chín triệu năm trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) (trong đó tiền vốn là 170.000.000 đồng và lãi là 39.566.000 đồng).

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền phải trả thì hàng tháng bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 10.478.000 đồng (bằng chữ: Mười triệu bốn trăm bảy mươi tám ngàn đồng) (chưa nộp).

Bà H không phải chịu án phí, ngày 18/7/2020 bà H dự nộp án phí sơ thẩm 5.000.000 đồng (Bằng chữ: Năm triệu đồng) theo lai thu số 0003981 ngày 18/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được nhận lại khi án có hiệu lực.

Án phí phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị T phải chịu 300.000 đồng, ngày 09/9/2020, bà T có dự nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng (lai thu số 0004008) được chuyển thu án phí.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 269/2020/DS-PT ngày 03/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:269/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về