Bản án 268/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 268/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 159/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Số 18 Ph, tổ 16, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.

Hiện đang tạm trú tại địa chỉ: Tổ 01, thôn Y, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng.Có mặt

- Bị đơn: Anh Trần Văn Ph, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 18 Ph, tổ 16, phường H, quận C, thánh phố Đà Nẵng.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 24 tháng 4 năm 2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn Chị Nguyễn Thị Thanh V trình bày: Chị kết hôn với Anh Trần Văn Ph vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, sau khi kết hôn vợ chồng sống tại Số 18 Ph, tổ 16, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng không tôn trọng nhau, chị xác định không hàn gắn được tình cảm, chị đã cố gắng chịu đựng vì con nhưng đến nay không thể chịu đựng được nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Anh Trần Văn Ph.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V xác định có 02 con chung tên Trần Nguyễn Bảo Trâm, sinh ngày 11/01/2013 và con Trần Nguyễn Bảo Nguyên, sinh ngày 23/11/2015. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi 02 con, không yêu cầu Anh Trần Văn Ph cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V xác nhận không có

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V xác nhận không có

* Tại lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Anh Trần Văn Ph trình bày: anh thống nhất với lời trình bày của Chị Nguyễn Thị Thanh V về thời gian và điều kiện kết hôn là đúng. Anh trình bày thêm: sau khi kết hôn vợ chồng sống tại Số 18 Ph, tổ 16, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do Chị Nguyễn Thị Thanh V không lo lắng cho gia đình, vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Nay Chị Nguyễn Thị Thanh V yêu cầu ly hôn, anh đồng ý vì vợ chồng không còn tình cảm.

- Về con chung: Anh Trần Văn Ph xác định có 02 con chung như vợ trình bày. Ly hôn, anh có nguyện vọng nhận nuôi cả hai tên Trần Nguyễn Bảo Trâm, sinh ngày 11/01/2013 và con Trần Nguyễn Bảo Nguyên, sinh ngày 23/11/2015 cho đến khi các con đủ tuổi trưởng thành, anh không yêu cầu chị Vcấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Anh Trần Văn Ph xác nhận không có

- Về nợ chung: Anh Trần Văn Ph xác nhận không có

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, HĐXX, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án:

+ Công nhận sự thuận tình ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh V và ông Trần Văn Ph

+ Về con chung: Giao 02 con chung Trần Nguyễn Bảo Trâm, sinh ngày: 11/01/2013 và Trần Nguyễn Bảo Nguyên, sinh ngày 23/11/2015 cho Chị Nguyễn Thị Thanh V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Trần Văn Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Anh Trần Văn Ph đã được Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt.

Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt Anh Trần Văn Ph.

[2]. Về Nội dung tranh chấp:

[1.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph được xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 32/2012, quyển số 01/2011 ngày 11 tháng 4 năm 2012. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm Chị Nguyễn Thị Thanh V khai rằng: chị không còn tình cảm, không còn thương yêu Anh Trần Văn Ph vì cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, hay xảy ra cải vả vì vậy vợ chồng không có trách nhiệm với nhau nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Trần Văn Ph. Còn Anh Trần Văn Ph cũng thừa nhận vợ chồng không quan tâm đến nhau, không còn tình cảm. Nay chị yêu cầu ly hôn anh, anh đồng ý ly hôn.

Thực tế xác nhận tại địa phương cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị V và anh Phcó mâu thuẫn từ đầu năm 2018, hay cãi cọ, đến tháng 02 năm 2019 chị Vkhông còn sống tại địa phương.

Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị V và anh Phđã thật sự trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng hàn gắn không còn. Nay chị V và anh Phthuận tình ly hôn, căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Vvà anh Ph.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph xác nhận có 02 con chung: tên Trần Nguyễn Bảo Trâm, sinh ngày 11/01/2013 và con Trần Nguyễn Bảo Nguyên, sinh ngày 23/11/2015.

Ly hôn, chị Vcó nguyện vọng được nuôi 02 con Trần Nguyễn Bảo Trâm và con Trần Nguyễn Bảo Nguyên cho đến khi con trưởng thành, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng. Anh Ph cũng có nguyện vọng được nhận nuôi cả 02 con Trần Nguyễn Bảo Trâm và con Trần Nguyễn Bảo Nguyên, không yêu cầu chi Vy cấp dưỡng.

Xét yêu cầu được nuôi con của Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph thì thấy: Việc nuôi dạy con là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ, nguyện vọng nuôi con của Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph là chính đáng. Tuy nhiên, hai con chung đều là con gái, hiện nay đang sống ổn định cùng với mẹ, được mẹ thương yêu, chăm sóc, dạy dỗ chu đáo, mẹ có đủ điều kiện để nuôi dạy con phát triển về thể chất và tinh thần, đảm bảo việc học tập của các con. Để không làm xáo trộn cuộc sống của 02 con, HĐXX căn cứ vào các điều 58,81,82,83,84 luật HNGĐ năm 2014 xử giao 02 con cho Chị Nguyễn Thị Thanh V trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy không thể chấp nhận yêu cầu nuôi con của anh Ph.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thanh V không yêu cầu Anh Trần Văn Ph cấp dưỡng. Anh Trần Văn Ph cũng không tự nguyện cấp dưỡng, nên HĐXX không đề cập đến .

* Về tài sản chung: Chị Vy, anh Ph xác nhận không có nên HĐXX không xem xét giải quyết.

* Về nợ chung: Chị Vy, anh Ph xác nhận không có nên HĐXX không xem xét giải quyết.

*Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị V phải chịu là 300.000đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; các điều 147, 227, 228, 266, 267, 269, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn của Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph.

2. Về nuôi con chung: Giao 02 con chung Trần Nguyễn Bảo Trâm, sinh ngày: 11/01/2013 và Trần Nguyễn Bảo Nguyên, sinh ngày 23/11/2015 cho Chị Nguyễn Thị Thanh V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Trần Văn Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không nuôi con được quyền đi lại, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền làm đơn xin thay đổi nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph xác định không có

4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thanh V và Anh Trần Văn Ph xác định không có

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm Chị Nguyễn Thị Thanh V phải chịu là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Vđã nộp theo biên lai thu số 0000524 ngày 31.5.2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Chị Vđã nộp đủ án phí.

5. Báo cho Chị Nguyễn Thị Thanh V biết có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Riêng Anh Trần Văn Ph vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Toà án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 268/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:268/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về