Bản án 268/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 268/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại Hội Trường xét xử Toà án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 271/2018/HSST ngày 13/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn L - Sinh ngày 10/10/1991, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Không; Trình độ vănhoá: 6/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn P (đã chết) và bà: Phạm Thị N; Có vợ là: Nguyễn Thị T; Có 01 con sinh năm 2016. Tiền án: Ngày 16/3/2017, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng, về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: chưa; Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 07/9/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Công ty cổ phần than N – Vinacomin; Địa chỉ: Số 779, đường Lê Thánh Tông, phường Bạch Đằng, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thái P – sinh năm 1971; Trú tại: Tổ 4, khu 1A, phường C, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: anh Nguyễn Quang H - sinh năm 1987. Trú tại: tổ 1, khu 1, phường H, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối năm 2017, Phạm Văn L từ quê ra khu vực phường Hà Tu, thành phố Hạ Long làm nghề đóng than tổ ong thuê. Đến tháng 7 năm 2018, do không có việc làm nên L sống lang thang, hàng ngày đi nhặt sắt vụn bán lấy tiền ăn tiêu. L ở chung với các đối tượng Q và N (hiện chưa rõ lai lịch địa chỉ), tại căn nhà cấp 4 bỏ hoang ở tổ 2 khu 7, phường H. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, L mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu xanh tím than không gắn biển kiểm soát của Quang và mang theo chiếc cưa sắt, đi đến khu vực Văn phòng KCS cũ của Công ty cổ phần than N, thuộc tổ 9, khu 7, phường Hà Tu, mục đích tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Tại đây, L phát hiện ở khu vực téc nước có 02 đường ống nước nhựa PVC màu đen, loại phi từ 50- 60mm, để nổi trên mặt đất. L đã dùng cưa cắt, chia nhỏ 02 đường ống trên thành 09 đoạn, chiều dài mỗi đoạn từ 02m đến 09m, rồi buộc vào xe mô tô chở về chỗ ở. Trên đường đi, thì bị bảo vệ Công ty cổ phần than Núi Béo và Công an phường Hà Tu kiểm tra phát hiện bắt giữ. Vật chứng thu: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu xanh tím than không gắn biển kiểm soát, số máy: HD1P542FMH10200603; số khung: LWAXCHL33YD004018 và 01 chiếc cưa sắt nhãn hiệu HANZI; 02 đoạn ống nước nhựa cứng màu đen chiều dài mỗi đoạn từ 02m đến 06m phi 50mm; 07 đoạn ống nước nhựa cứng màu đen chiều dài mỗi đoạn từ 02m đến 09 m phi 60mm.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 191/KLĐG ngày 25/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hạ Long, kết luận: 09 đoạn ống nước nhựa PVC màu đen loại phi từ 50- 60mm, có chiều dài mỗi đoạn từ 02m đến 09 m, L trộm cắp tại thời điểm bị xâm phạm, trị giá 1.485.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần than Núi Béo- Vinacomin, ông Nguyễn Thái Phương có mặt tại phiên tòa có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo về nội dung vụ án. Công ty cổ phần than Núi Béo đã được trả lại tài sản bị trộm cắp, đại diện ủy quyền của Công ty cổ phần than Núi Béo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại.

Người làm chứng anh Nguyễn Quang H vắng mặt tại phiên tòa, có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp lời khai của bị cáo về nội dung vụ án.

Tại Cáo trạng số 275/CT-VKSHL ngày 11/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố Phạm Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ Luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 06 đến 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 07/9/2018. Tổng hợp với hình phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hoá, buộc bị cáo L phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là từ 16 đến19 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 07/9/2018, được trừ đi những ngày đã tạm giữ, tạm giam tại bản án số 10/2017/HSST (từ ngày 16/12/2016 đến ngày 16/3/2017).

Đại diện Viện kiểm sát không đề cập giải quyết về phần dân sự và không đề nghị hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc cưa sắt là vật chứng vụ án. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave thu giữ của bị cáo chưa xác định được nguồn gốc, tách ra làm rõ xử lý sau. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời trình bày của bị hại, của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, tại khu vực Văn phòng KCS cũ của Công ty cổ phần than Núi Béo, thuộc tổ 9, khu 7, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long, Phạm Văn L có hành vi trộm cắp ống nước nhựa PVC có trị giá 1.485.000 đồng của Công ty cổ phần than Núi Béo.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu (đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản).

Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng nông thôn, có trình độ văn hóa thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.

[4] Về hình phạt: Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách, vì vậy ngoài hình phạt của tội phạm lần này, bị cáo còn bị tổng hợp với hình phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá.

[5] Về phần dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, nay không đề nghị bồi thường thêm, HĐXX không đề cập.

[6] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 09 đoạn ống nước nhựa PVC màu đen loại phi từ 50- 60mm, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, Hội đồng xét xử không đề cập lại.

- Đối với 01 chiếc cưa sắt là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave là phương tiện phạm tội nhưng hiện chưa xác định được nguồn gốc, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, vì vậy Hội đồng xét xử cũng không đề cập giải quyết.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có công ăn việc làm, nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[8] Vấn đề khác: Ngoài ra bị cáo còn khai thời gian từ tháng 7/2018 đến ngày bị bắt, bị cáo còn nhiều lần trộm cắp đường ống nước, sắt và 01 bao than của Công ty cổ phần than Núi Béo mang bán cho những người thu mua sắt vụn được khoảng 800.000đồng đến 900.000đồng. Trong đó có 01 lần trộm cắp cùng với đối tượng Quang và Ngân, tuy nhiên bị cáo không nhớ rõ thời gian trộm cắp, tài sản trộm cắp và địa điểm trộm cắp. Công ty than Núi Béo xác định tài sản bị mất và đối tượng nghi vấn không phù hợp với lời khai nhận của bị cáo, các đối tượng Quang và Ngân hiện không xác định được lai lịch, nên chưa đủ căn cứ xử lý, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập.

Bị cáo Phạm Văn L là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí (hộ nghèo, cận nghèo), tuy nhiên bị cáo từ chối yêu cầu được trợ giúp pháp lý, vì vậy Toà án không yêu cầu trung tâm trợ giúp pháp lý trợ giúp pháp lý cho bị cáo.

Tại phiên toà bị cáo Phạm Văn L có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm. Xét thấy bị cáo Phạm Văn L là cá nhân thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo đủ điều kiện để được miễn án phí theo quy định của pháp luật, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đơn đề nghị miễn án phí của bị cáo, không buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Bị cáo L có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ Luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L 09 (chín) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 10 (Mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá, buộc bị cáo L phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 19 (mười chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 07/9/2018, được trừ đi những ngày đã tạm giữ, tạm giam tại bản án số 10/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện T (từ ngày 16/12/2016 đến ngày 16/3/2017 ).

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc cưa sắt nhãn hiệu HANZI.

(Tình trạng như Biên bản giao vật chứng số 39/BB-THA ngày 26/11/2018 giữa Công an thành phố và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh).

- Về án phí: Áp dụng: điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn L.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và bị hại, báo cho bị cáo và bị hại biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 268/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:268/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về