Bản án 267/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 267/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 240/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 265/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1995. Tại An Giang. Nơi cư trú: ấp Hà Bao 1, xã Đa Phước, huyện A, tỉnh A. Nghề nghiệp: Lái xe nâng. Trình độ học vấn: không biết chữ. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960. Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư và chưa có vợ con. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Tiền án: Không Tiền sự: Không Bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 05/01/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 97 ngày 14/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thành phố Biên Hòa.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn S là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 05/01/2020, tại khu vực khu phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, S gặp người thanh niên mới quen tên T (không rõ lai lịch) và nhờ T mua 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) ma túy để sử dụng, T đồng ý. Sau đó, T gọi điện cho đối tượng (không rõ lai lịch) mang một gói ma túy tổng hợp để trong vỏ bao thuốc lá Jét đến bán cho Sang với giá 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Khoảng 22 giờ cùng ngày, S đem gói ma túy vừa mua được đến thuê phòng 26, Nhà nghỉ “Hoa phượng đỏ” thuộc khu phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đ để sử dụng. S để gói thuốc lá Jét bên trong chứa một gói ma túy trên mặt bàn trong phòng 26. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, Sang bị Công an phường T, thành phố Biên Hòa kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Vật chứng, tài sản thu giữ:

- 01 (một) gói nylon hàn kín hai đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong có chử ký của Nguyễn Văn Sang (kí hiệu M).

* Tại Kết luận giám định số 30/KLGĐ-PC09 ngày 10/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 1,2446 gam, loại: Methamphetamine”.

Tại cáo trạng số: 250/CT/VKSBH ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Bị cáo Nguyễn Văn S không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở lại cộng đồng xã hội.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận: Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 05/01/2020, tại phòng 26, Nhà nghỉ “Hoa phượng đỏ” thuộc khu phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, Nguyễn Văn Sg có hành vi tàng trữ trái phép 1,2446 gam ma túy, loại: Methamphetamine thì bị Công an phường T phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành có đủ nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Xét kinh tế bị cáo còn khó khăn, bản thân lại sử dụng chất ma tuý, không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ: Số lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định.

 [7] Đối với tên T và đối tượng (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho Nguyễn Văn Sang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Nguyễn Văn S 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 gói niêm phong số: 30 ngày 13/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Văn S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:267/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về