Bản án 267/2020/HSST ngày 12/10/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 267/2020/HSST NGÀY 12/10/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố H. Tòa án nhân dân quận C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 268/2020/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. N.T.L, sinh năm 1962 tại Hà Nội; ĐKHKTT: P411, A9 phường N, quận C, thành phố H; Nơi ở hiện tại: P511b, C5 phường N, thành phố C, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Con ông: N.N.T (đã chết) và bà: N.T.T (đã chết); Chồng là: Đ.V.A (đã chết); Có 02 con: lớn đã chết, nhỏ sinh năm 1985; Tiền án, tiền sự: Không; DCB số 464, lập ngày 25/7/2020 tại Công an quận C; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 15/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. L.M.A, sinh năm 1982 tại H; ĐKHKTT và nơi ở hiện tại: P1111 Tòa B Chung cư R, 69 V, phường T, quận T, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Cán bộ; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: L.V.T và bà: T.T.G; Vợ là: N.T.H (đã ly hôn); Có 01 con: sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không; DCB số 463, lập ngày 25/7/2020 tại Công an quận C; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 15/7/2020. Hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan :

1. Anh N.M.T, sinh năm 1995; ĐKHKTT: Tổ P, khu 3, phường Y, thành phố H, tỉnh Q. (Vắng mặt).

2. Anh Đ.V.M, sinh năm 1986; ĐKHKTT: P512, CT4, A1 Tây Nam L, phường H, quận H, thành phố H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an quận C kiểm tra hành chính tại số 89 N, phường D, quận C, thành phố H, phát hiện trên người N.T.L có các tờ tích kê, giấy tờ liên quan đến bảng ghi số lô đề. Đồng thời, tổ công tác tiếp tục kiểm tra hành chính xung quanh khu vực phát hiện L.M.A, Đ.V.M, N.M.T có biểu hiện nghi vấn liên quan đến việc mua số lô, đề. Cơ quan công an đã lập biên bản thu giữ và mời các đối tượng về làm việc.

Cơ quan điều tra thu giữ của N.T.L: 12.035.000 đồng (Mười hai triệu không trăm ba lăm nghìn đồng); 02 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 14/7/2020; 09 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 15/7/2020.

Cơ quan điều tra thu giữ của Đ.V.M: 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng).

Cơ quan điều tra thu giữ của N.M.T: 01 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 14/7/2020.

Quá trình điều tra xác định:

Do không có công việc ổn định nên khoảng 16h hàng ngày, N.T.L ra đầu ngõ 89 N, phường D, quận C, thành phố H để bán số lô đề cho khách. Khi có khách, L dùng tờ tích kê để ghi các số lô, số đề của khách rồi ký tên vào cuối tờ giấy, sao lại một bản lưu rồi đưa cho khách tờ tích kê. Hình thức chơi như sau:

Kết quả thắng thua được tính dựa vào kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng hàng ngày.

+ Đối với hình thức ghi số đề: Nếu khách chơi dự đoán 2 con số trùng với 2 số cuối của giải đặc biệt thì trúng đề với tỷ lệ khách đánh 1.000 đồng khi trúng sẽ được 70.000 đồng.

+ Đối với hình thức ghi số lô: Khách có thể chọn cặp số bất kỳ từ 00 đến 99 và đặt cược theo điểm nếu khách chơi chọn đúng cặp số trùng với 2 số cuối cùng trong tất cả các giải từ giải đặc biệt cho đến giải 7 thì khách sẽ thắng cược với tỉ lệ 1 điểm được 80.000 đồng.

+ Đối với lô xiên 2, xiên 3, xiên 4: Khách chọn 2 (đối với xiên 2), chọn 3 (đối với xiên 3) và chọn 4 (đối với xiên 4) con lô khác nhau, kết hợp chúng thành 1 cặp rồi đánh, nếu các con số khách chọn đồng thời về cùng 1 ngày thì thắng cược với tỷ lệ đánh xiên 2 là 1.000 đồng thắng được 10.000 đồng, xiên 3 là 1.000 đồng thắng được 40.000 đồng, xiên 4 là 1.000 đồng thắng được 100.000 đồng.

N.T.L khai: Trong ngày 15/7/2020, L đã bán số lô đề cho 09 khách vãng lai (L không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) ghi vào 09 tích kê, cụ thể như sau: 1. Lô 44, 41 x 10; Đề 91 x 110; 2. Đề 42, 55, 78 x 20; Xiên 3 42, 55, 78 x 50; 3. Đề đầu 6 x 10; 62, 63, 65 x 10; 4. Lô 42 x10; 5. Lô 31 x 10, Đề 31 x 20; 6. Lô 79, 86, 93 x 5, Đề 91 x 65; 7. Xiên 3 49, 54, 76 x 45; 41, 58, 49 x 45; 8. Đề 94 x 25, 9. Đề 49, 94 x 110, Lô 49, 94 x 10. Tổng số tiền Loan ghi số lô đề ngày 15/7/2020 là 2.495.000 đồng (Hai triệu bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng). 17h30’ L bị Cơ quan công an kiểm tra, do chưa đến giờ có kết quả xổ số miền Bắc ngày 15/7/2020 nên không tính được thắng, thua.

Quá trình đang bán các số lô đề cho khách, Đ.V.M đến và đưa cho L 01 tờ tích kê ghi ngày 14/7/2020 trúng 20 điểm lô tương đương 1.600.000 đồng, L đưa cho M số tiền là 1.600.000 đồng và cầm lấy tờ tích kê. L.M.A đưa cho L 01 tờ tích kê ghi ngày 14/7/2020 trúng 60 điểm lô tương đương 4.800.000 đồng, L cầm tờ tích kê, chuẩn bị đưa tiền cho A thì bị Cơ quan công an kiểm tra phát hiện.

Đ.V.M khai: Khoảng 17h ngày 14/7/2020, M đi đến đầu ngõ 89 N.P.S, phường D, quận C, thành phố H để mua số lô của N.T.L như sau: Lô 03,30,00 x 20 điểm; 01, 10 x 25 điểm, tổng là 110 điểm nên L khuyến mại bán cho M 1 điểm lô với giá 22.500 đồng, tổng số tiền M mua số lô là 2.475.000 đồng. L đưa M 01 tờ tích kê ghi số lô vừa mua. Khoảng 18h30’ cùng ngày, M so sánh kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc thì biết mình trúng 20 điểm lô số 03 tương đương 1.600.000 đồng. Khoảng 17h ngày 15/10/2020, M đi đến N.P.S để gặp L đưa tích kê lấy tiền trúng của ngày hôm trước, L đưa M 1.600.000 đồng. Tổng số tiền M sử dụng để đánh bạc là 4.075.000 đồng.

L.M.A khai: Khoảng 17h ngày 14/7/2020, A đi đến đầu ngõ 89 N.P.S, phường D, quận C, thành phố H để mua số lô, số đề của N.T.L như sau: Lô 89 x 50 điểm; 48 x 20 điểm; 66, 90, 28 x 10 điểm; Đề 66 x 25.000 đồng, tổng là 100 điểm lô nên L khuyến mại bán cho A 1 điểm lô với giá 22.500 đồng, tổng số tiền A mua số lô, số đề là 2.275.000 đồng. L đưa A 01 tờ tích kê ghi số lô, số đề vừa mua. Khoảng 18h30’ cùng ngày, A so sánh kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc thì biết mình trúng 50 điểm lô số 89, 10 điểm lô số 28, tổng cộng trúng 4.800.000 đồng. Khoảng 17h ngày 15/10/2020, An đi đến N.P.S để gặp L đưa tích kê lấy tiền trúng, đang đợi L trả tiền thì bị Cơ quan công an kiểm tra phát hiện. Tổng số tiền A sử dụng để đánh bạc là 7.075.000 đồng.

N.M.T khai: Khoảng 17h30’ ngày 14/7/2020, T đi đến đầu ngõ 89 N.P.S, phường D, quận C, thành phố H để mua số lô xiên của N.T.L như sau: Xiên 2: 99, 88 x 25 điểm:

91, 21 x 25 điểm; 88, 21 x 25 điểm; Xiên 3: 99, 88, 21 x 25 điểm, tổng số tiền T mua số lô xiên của L là 100.000 đồng. Khoảng 18h30’ cùng ngày, T so sánh kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc thì biết mình trượt số lô xiên đã chơi. Khoảng hơn 17h ngày 15/7/2020, T tiếp tục đến chỗ L để mua số lô, số đề, nhưng chưa kịp mua thì Cơ quan công an kiểm tra, thu giữ 01 tờ tích kê T mua số lô xiên ngày 14/7/2020.

Như vậy, tổng số tiền L sử dụng để đánh bạc vào ngày 14/7/2020 là 11.250.000 đồng (Mười một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Tổng số tiền L sử dụng để đánh bạc vào ngày 15/7/2020 là 2.495.000 đồng (hai triệu bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng), do số tiền này dưới 5.000.000 đồng nên hành vi ngày 15/7/2020 của L không cấu thành tội đánh bạc.

Tại Cơ quan điều tra, lời khai của N.T.L phù hợp với lời khai của Đ.V.M, L.M.A, N.M.T, phù hợp với kết luận giám định chữ viết, chữ số, chữ ký, biên bản nhận dạng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với Đ.V.M, N.M.T, số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng. Nhân thân Đ.V.M, N.M.T chưa có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Ngày 16/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đ.V.M, N.M.T về hành vi đánh bạc với hình thức phạt tiền 350.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ- CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 273/CT-VKSCG ngày 24/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố bị cáo N.T.L và L.M.A về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên. Sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi cũng như nhân thân các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 (đối với bị cáo L), Điều 35 (đối với bị cáo An) Bộ luật hình sự, xử phạt N.T.L từ 12 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng; L.M.A phạt tiền 25 triệu đến 30 triệu đồng.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 13.635.000 đồng. Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 3 tích kê ghi số lô đề ngày 14/7/2020; 09 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 15/7/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]Về tội danh: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, thống nhất với nhau, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang và vật chứng thu được trong vụ án. Thấy đủ cơ sở kết luận: Ngày 14/7/2020, tại số 89 N, phường M, quận C, thành phố H, N.T.L đã có hành vi đánh bạc với các khách chơi bằng cách bán số lô, đề với số tiền khách mua và khách trúng tổng là 11.250.000 đồng. Trong đó, L.M.A đã có hành vi đánh bạc với N.T.L dưới hình thức mua số lô, số đề của L với số tiền 2.275.000 đồng, thắng số tiền 4.800.000 đồng, tổng cộng tiền đánh và tiền thắng là 7.075.000 đồng.

Hành vi nêu trên của N.T.L và L.M.A đã phạm vào tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng, tiếp tay cho tệ nạn cờ bạc phát triển trong xã hội và gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế và hạnh phúc của nhiều gia đình, bị dư luận xã hội lên án, pháp luật nghiêm cấm. Các bị cáo đều là những người có nhận thức pháp luật, biết hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc là vi phạm pháp luật, song do ham hưởng lợi bất chính, ý thức chấp hành pháp luật kém các bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo trước pháp luật để giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.

Xét đến vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Bị cáo N.T.L trong vụ án này là người trực tiếp bán số lô đề, ngày 14/7/2020 bị cáo đã bán số lô đề, thu của khách đánh bạc là 11.250.000 đồng. Bị cáo L.M.A dùng số tiền 2.275.000 đồng để đánh bạc và thắng 4.800.000 đồng, tổng cộng là 7.075.000 đồng. Do vậy khi cân nhắc mức hình phạt bị cáo L cao hơn so với bị cáo A.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung: Khi quyết định hình phạt hội đồng xét xử xem xét, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Các bị cáo nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo L có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo An có thành tích trong quá trình công tác nên áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm cho các bị cáo một phần hình phạt. Xét các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nên cho cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Bị cáo A có công việc ổn định, nhất thời phạm tội, số tiền dùng đánh bạc ít nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung bằng tiền được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo L không có công ăn việc làm và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đối với bị cáo A đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

[5] Xử lý tang vật và án phí: Đối với số tiền 11.250.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc cần tịch thu sung công quỹ nhà nước; Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 3 tích kê ghi số lô đề ngày 14/7/2020; 09 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 15/7/2020.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo N.T.L và bị cáo L.M.A phạm tội Đánh bạc.

Áp dụng : Điểm Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 (đối với bị cáo L); Điều 35 (Đối với bị cáo A); Bộ luật hình sự.

* Xử phạt: N.T.L 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách 20 (Hai mươi) tháng, thời hạn kể từ ngày tòa tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND phường N, quận C, thành phố H giám sát giáo dục trong thời hạn thử thách của bản án.

- Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Phạt L.M.A số tiền 25 triệu đồng.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

Áp d ụng : Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; mục A danh mục mức án phí, lệ phí Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

- Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 3 tích kê ghi số lô đề ngày 24/7/2020; 09 tờ tích kê ghi số lô đề ngày 15/7/2020.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 13.635.000 đồng.

(Theo Giấy nộp tiền của Công an quận C ngày 29/9/2020 vào tài khoản tại kho bạc nhà nước C).

- Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2020/HSST ngày 12/10/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:267/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về