TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 267/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 248/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ tên: Nguyễn Đức D - sinh năm 1988 tại: Tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 9/12/213 đường B, phường T, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 145 đường L, phường X, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T và bà Đặng Thị Kim D1; có vợ Vũ Thị Thúy H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20-5-2020, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 29-5-2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Phan Hồng T1, anh Trần Đăng T2 (không triệu tập tới phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 20-5-2020, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 138 đường L, phường X, thành phố Đ phát hiện Nguyễn Đức D đang dừng xe máy biển kiểm soát: 18B1-81511 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, D đã tự giác lấy từ trong túi quần bên trái D đang mặc 01 gói nhỏ nilong màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã thu giữ và mở kiểm tra bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (D khai đó là ma túy đá). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng ký hiệu A, đưa D cùng người làm chứng về trụ sở, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn tạm giữ của D 01 điện thoại di động Iphone màu trắng bị vỡ màn hình và chiếc xe máy biển kiểm soát: 18B1- 81511.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 547/GĐKTHS ngày 21-5-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu vật niêm phong ký hiệu D thu giữ của Nguyễn Đức D gửi giám định là chất ma túy, loại chất ma túy là Methamphetamine, có khối lượng 0,316 gam (không phẩy ba một sáu gam).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Đức D khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 13 giờ ngày 20-5-2020, Nguyễn Đức D điều khiển xe máy biển kiểm soát: 18B1-81511 một mình từ nhà đến khu vực đê N, phường X, thành phố Đ gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng rồi cất vào túi quần bên trái đang mặc. Sau đó, D điều khiển xe máy đi về để sử dụng. Khi D đi đến khu vực trước cửa số nhà 138 đường L, phường X, thành phố Đ thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Đức D và chiếc xe máy biển kiểm soát: 18B1-81511, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.
Bản cáo trạng số 246/CT-VKSTPNĐ ngày 10-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Đức D tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D từ 21 tháng tù đến 27 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Đức D nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đức D phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 20-5- 2020, Nguyễn Đức D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,316 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trước cửa số nhà 138 đường L, phường X, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Methamphetamine bị cáo tàng trữ là 0,316 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đức D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Nguyễn Đức D phạm tội lần đầu, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Đức D tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng như sau:
- Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bị vỡ màn hình là tài sản cá nhân của bị cáo Nguyễn Đức D, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức D 02 năm tù (Hai năm tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 20-5-2020.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bị vỡ màn hình, song tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 03-8- 2020).
3. Án phí:
- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Nguyễn Đức D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn Đức D được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 267/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 267/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về