Bản án 267/2020/HS-PT ngày 06/05/2020 về tội cướp tài sản và tội bắt giữ người trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 267/2020/HS-PT NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TỘI BẮT GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Trong ngày 06 tháng 5 năm 2020, xét xử Phúc thẩm công khai vụ án hình sự Phúc thẩm thụ lý số: 98/2020/TLHS- PT ngày 09 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn H1 và đồng phạm do có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 284/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án quận CG, thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn H1 - sinh năm 1994.

HKTT: AT, xã NC, Huyện NS, tỉnh HD; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Trần Văn P1 và con bà Nguyễn Thị H2; Theo danh chỉ bản số 0284 ngày 26/4/2019 của Công an quận CG và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo chưa có tiền án tiền sự:

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 hiện nay đang tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Ngọc L1 - sinh năm 1995.

HKTT: Tổ dân phố Hoàng 15, CN 1, quận BTL, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn C1 và con bà Chu Thị L2; Theo danh chỉ bản số 00285 ngày 02/5/2019 của Công an quận CG và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo chưa có tiền án tiền sự:

1 Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 05/5/2019 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt).

3. Họ và tên: Nguyễn Ngọc H3 - sinh năm 1995.

HKTT: Thôn ĐT, xã AT, Huyện VY, tỉnh YB; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Ngọc T1 và con bà Nguyễn Thị T2; Theo danh chỉ bản số 00288 ngày 26/4/2019 của Công an quận CG và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo chưa có tiền án tiền sự:

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 05/5/2019 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt).

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Phm Quang M1, Kiều Long P1.

- Người bào chữa cho bị cáo:

+ Luật sư bào chữa cho bị cáo H1: Ông Nguyễn Ngọc T3 - Luật sư thuộc Công ty luật Ngọc Tân - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Phòng 404, Đơn nguyên A - Tòa nhà Handiresco Complex, số 31 LVL, phường NC, quận TX, (có mặt).

+ Luật sư bào chữa cho bị cáo H3: Bà Nguyễn Thị H1 Y1 - Luật sư thuộc Công ty luật TNHH Nguyễn Bùi và Cộng sự; Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Số 45 ngõ HB, phố KT, phường TQ, quận ĐĐ, thành phố Hà Nội. (có mặt).

- Người bị hại: Anh Nguyễn Tuấn L3 - sinh năm 1998. (Không triệu tập). HKTT: Khu 2 HL, thành phố VT, tỉnh PT.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Lý Lao T3 - sinh năm 1999.

HKTT: Thôn LK, xã BK, Huyện SP, LC. (Không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 8 năm 2017, Phạm Quang M1 cho Nguyễn Tuấn L3 vay 38.000.000 đồng. Ngày 25/4/2019, M1 phát hiện Tuấn L3 đang ở tại số 1, ngách 5, ngõ 28 DK, phường MD, quận CG, Hà Nội. M1 nhờ Nguyễn Ngọc H3 và Kiều Long P1 đi bắt Tuấn L3 về để đòi nợ thì cả hai đều đồng ý. M1 chở P1 bằng xe máy, H3 đi xe đạp điện đến địa chỉ trên. Đến nơi, P1 và H3 ở dưới đợi, M1 lên tầng 2 thấy Tuấn L3 đang chơi game, M1 liền giật tai nghe của Tuấn L3 ra, dùng tay trái túm vào sau cổ Tuấn L3 và dùng tay pH1 tát vào mặt L1 hai cái rồi kéo Tuấn L3 xuống tầng một. M1 kéo Tuấn L3 lên xe máy H3 điều khiển rồi ngồi kẹp đằng sau, còn P1 đi xe đạp điện cùng về nhà trọ. Khi về đến khu 2 trọ, M1, H3, P1 đưa Tuấn L3 lên tầng hai vào phòng của H3. P1. M1 và Tuấn L3 vào phòng, H3 và P1 đứng canh ở trước cửa phòng. M1 dùng tay tát hai cái vào mặt Tuấn L3 và hỏi là “nợ tao mày tính thế nào?”, sau đó M1 lại tát Tuấn L3 một cái nữa và lấy điện thoại của Lý Lao T3 đưa cho Tuấn L3 bắt pH1 liên lạc với gia đình đem tiền đến trả (lúc đó T3 vừa dậy ngủ, không biết nội dung sự việc). M1 hỏi Tuấn L3 là “đã gọi điện được cho ai chưa”, Tuấn L3 trả lời là “chưa” thì M1 giật lại điện thoại trả cho T3. M1 ra chỗ H3 mượn điện thoại để bắt Tuấn L3 liên lạc với người nhà qua Facebook. Sau đó, Trần Văn H1 nấu ăn xong đi sang, M1 nhờ H1 trông hộ Tuấn L3 rồi cùng P1 và H3 cùng sang phòng H1 ăn. Ăn xong P1 đi học, M1 và H3 lại tiếp tục đi sang nơi H1 đang trông giữ Tuấn L3. M1 đưa Tuấn L3 lên phòng của M1 tắm rồi đưa sang phòng của H1, trong phòng có H3 và H1. M1 lấy điện thoại của H3 đưa cho Tuấn L3 tiếp tục yêu cầu L1 gọi cho người nhà nhưng không ai giúp. M1 tiếp tục đánh Tuấn L3 và bắt viết giấy nhận nợ rồi lại yêu cầu Tuấn L3 gọi điện cho gia đình để mang tiền ra trả nợ. Do bị đánh, Tuấn L3 sợ hãi nên buộc phải viết giấy nhận nợ cho M1. Thấy Tuấn L3 gọi điện cho gia đình nhưng không được, H1 nhắn tin cho Nguyễn Ngọc L1 để hỏi cách đòi nợ Tuấn L3. H1 kể lại sự việc cho Ngọc L1 nghe và bảo “M1 có đánh, có chửi, có dọa nhưng không ăn thua, em có cách gì chỉ cho anh với”. Ngọc L1 bảo với H1 là “phải qua phòng xem sự việc như thế nào thì mới giúp được” nên H1 đã nhờ Ngọc L1 sang giúp. Khi đến nơi, Ngọc L1 hỏi H1: “Thằng nợ đâu?”, H1 chỉ vào Tuấn L3 và bảo đấy là người nợ M1. Ngọc L1 tát Tuấn L3 và bắt gọi điện thoại cho gia đình để mang tiền xuống trả. Sau khi gọi bố Tuấn L3 (là anh Nguyễn Đức H1, sinh năm 1976; HKTT: Khu 2, Hùng Lô, TP Việt Trì, P1 Thọ) nhiều cuộc thì gặp được anh H4, Ngọc L1 nói chuyện trực tiếp với anh H4 nhưng anh H4 không đồng ý trả tiền cho Tuấn L3 mà tắt điện thoại đi. M1 lại tiếp tục dùng tay chân đấm đá Tuấn L3 rồi bắt Tuấn L3 viết lại giấy vay nợ vì thiếu địa chỉ. Lúc này M1, H1, H3 đi ăn cơm, T3 cũng cầm một bát cơm sang cho Tuấn L3 ăn rồi đi về. Tuấn L3 viết giấy nhận nợ và hẹn đến ngày 25/4/2019 sẽ trả tiền, viết xong Ngọc L1 bắt Tuấn L3 ký vào giấy nợ. Một lúc sau, Tuấn L3 nói là bố L1 nhắn tin hỏi nợ bao nhiêu và đang ở đâu. M1 bảo Tuấn L3 nhắn tin số nợ là 38.000.000 đồng và hẹn bố ra khu NCđể gặp. Khoảng 23h cùng ngày, Ngọc L1 đi về nhà, M1 đưa Tuấn L3 lên phòng M1 rồi khóa cửa ngoài. Sau đó, bố Tuấn L3 gọi điện hẹn gặp nhưng do đã muộn nên M1 hẹn để sáng hôm sau. Khoảng 9 giờ ngày 26/4/2019, bố L1 gọi điện và hẹn M1 ra khu cây xăng NC, CN1, BTL, Hà Nội. M1, T3, H3, H1 cùng đưa Tuấn L3 ra gặp bố của L1 để nói chuyện về việc trả tiền thì các đối tượng bị Công an phường CN1 mời về trụ sở để làm việc.

3 Cơ quan Công thu giữ của M1: 01 giấy mượn tiền có chữ ký của người cho vay là Phạm Quang M1, người vay là Nguyễn Tuấn L3, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 29V1 – 300.67; Thu giữ của H1: 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng, sim số: 0336274647, 01 xe máy Win màu đen, BKS: 27F8 – 1561; Thu giữ của L1: 01 ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng, sim số: 0363123630; Thu giữ của H3: 01 ĐTDĐ Iphone 6 màu vàng, sim số: 0984485234; Thu giữ của P1: 01 xe đạp điện màu xanh, đen, trắng, trên khung xe ghi số 133. Thu giữ của T3: 01 ĐTDĐ Iphone 6 S màu xám, sim số: 0869807323.

Ti cơ quan Công an các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Đối với Lý Lao T3 không tham gia việc bắt, trông giữ, đánh đập Tuấn L3 ở nhà trọ. Khi M1 lấy điện thoại của T3 để bắt Tuấn L3 liên lạc về gia đình thì T3 vừa dậy ngủ, điện thoại để trên giường, M1 lấy điện thoại của T3 nhưng không hỏi ý kiến T3. Sáng ngày 26/4/2019, khi T3 từ nhà trọ ở phố TC đi sang khu trọ của M1 thì gặp H1 ở cổng, H1 rủ T3 cùng đi ra khu NCthì T3 đồng ý. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Lý Lao T3.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 29V1 – 300.67 thu giữ của M1 đăng ký mang tên Khổng Văn Q1 (sinh năm 1995; HKTT: Vô KH3, CL, BV, Hà Nội). Ngày 26/4/2019, anh Q1 cho M1 mượn chiếc xe máy trên. Ngày 18/9/2019, Cơ quan điều tra Công an quạn CG ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy trên cho anh Q1.

Đối với chiếc xe máy Win màu đen, BKS: 27F8 – 1561 thu giữ của H1 đăng ký mang tên Tòng Văn Ch1 (ĐC: Bản Búng, Búng Lao, Mường Ảng, Điện Biên). Anh Ch1 khai mua chiếc xe máy trên năm 2007 và bán cho một người không quen biết năm 2014, không viết giấy tờ mua bán xe. H1 khai mua lại của một người không quen biết tại Đường Láng giá 6.000.000, khi mua có viết giấy tờ mua bán và có đăng ký xe nhưng trong quá trình sử dụng H1 đã làm mất giấy tờ trên. Ngày 18/9/2019, Cơ quan Công an quận CGra quyết định tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy trên để tiếp tục xác M1, xử lý sau.

Đối với xe đạp điện màu xanh, đen, trắng, trên khung xe ghi số 133 thu giữ của P1, P1 khai mua năm 2006. Ngày 18/9/2019, Cơ quan Công an quận CGra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy trên cho P1.

Đối với chiếc ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng, sim số: 0336274647 thu giữ của H1, chiếc ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng, sim số: 0363123630 thu giữ của L1, ĐTDĐ Iphone 6 màu vàng, sim số: 0984485234 thu giữ của H3, ĐTDĐ Iphone 6 S màu xám, sim số: 0869807323 thu giữ của T3 sử dụng vào việc phạm tội.

4 Anh Nguyễn Tuấn L3 không yêu cầu giám định thương tích và không yêu cầu M1, L1 bồi thường thương tích.

Ngày 25/4/2019, Phạm Quang M1, Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3, có hành vi bắt giữ và cướp tài sản của anh Nguyễn Tuấn L3, Kiều Long P1có hành vi cùng M1, H1, H3 bắt giữ anh Tuấn L3, Nguyễn Ngọc L1 đồng phạm với M1, H1, H3 về hành vi cướp tài sản anh Tuấn L3 tại phòng trọ ở ngách 39 ngõ 1, Phạm Văn Đồng, Mai Dịch, CG, Hà Nội.

Ti bản cáo trạng số 285/CT-VKSCG ngày 28/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận CGđã truy tố Phạm Quang M1, Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 về tội bắt giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự. Truy tố Nguyễn Tuấn L3 tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 và Kiều Long P1 tội bắt giữ người trái pháp luật theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự.

Tại bản án số 284/2019/HSST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố:

- Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 phạm tội "Cướp tài sản" và tội "Bắt giữ người trái pháp luật".

- Nguyễn Ngọc L1 phạm tội "Cướp tài sản".

Áp dụng: khoản 1 Điều 168 và khoản 1 Điều 157; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 55, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Trần Văn H1 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội "Cướp tài sản" và 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt buộc Trần Văn H1 pH1 chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 60 (Sáu mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

Nguyễn Ngọc H3 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” và 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Ngọc H3 phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 48 ( Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 05/5/2019.

Áp dụng: khoản 1 Điều 168; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc L1 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến 5 ngày 05/5/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 04/12/2019, bị cáo Trần Văn H1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/12/2019, các bị cáo Nguyễn Ngọc L1, Nguyễn Ngọc H3 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ti phiên tòa P1c thẩm, các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc L1 và Nguyễn Ngọc H3 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự P1c thẩm.

- Về nội dung: Phạm Quang M1, Nguyễn Ngọc H3, Trần Văn H1 có hành vi bắt giữ anh Nguyễn Tuấn L3 về phòng trọ sau đó Trần Văn H1, Phạm Quang M1, Nguyễn Ngọc L1, Nguyễn Ngọc H3 có hành vi đánh, đe dọa anh L1 nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Hội đồng xét xử sơ thẩm xử Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 về tội "Cướp tài sản" và tội "Bắt giữ người trái pháp luật", Nguyễn Ngọc L1 về tội “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị hại tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm áp dụng điểm h khoản 1 là không chính xác. Mức án cấp sơ thẩm áp dụng với Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc L1, Nguyễn Ngọc H3 là phù hợp nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc L1 và Nguyễn Ngọc H3. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo H1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận, bị cáo là lao động chính trong gia đình, tài sản chưa bị chiếm đoạt, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Về tội bắt giữ người trái pháp luật bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo H3 đề nghị Hội đồng xét xử xem xet: M1 không bàn bạc với H3 về hành vi cướp tài sản. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 và Nguyễn Ngọc L1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự P1c thẩm.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 và Nguyễn Ngọc L1, Phạm Quang M1, Kiều Long P1phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Phạm Quang M1, Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 và Kiều Long P1có hành vi bắt anh Nguyễn Tuấn L3 đưa về phòng trọ của mình thay nhau canh gác không để cho anh Nguyễn Tuấn L3 trốn. Từ khoảng 12h ngày 25/4/2019 đến 9h ngày 26/4/2019, trong thời gian này Phạm Quang M1, Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 và Nguyễn Ngọc L1 đã có hành vi đe dọa, dùng vũ lực, tát và chửi bới anh Nguyễn Tuấn L3 nhằm chiếm đoạt số tiền 38.000.000 đồng mà Tuấn L3 đang nợ Phạm Quang M1. Hành vi của Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3, Nguyễn Ngọc L1 đã bị hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 về tội “Cướp tài sản” và tội “Bắt giữ người trái pháp luật”; Nguyễn Ngọc L1 về tội “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Các bị cáo có hành vi bắt giữ trái phép anh Nguyễn Tuấn L3 rồi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa buộc anh Nguyễn Tuấn L3 pH1 trả số tiền 38 triệu đồng mà anh L1 nợ Phạm Quang M1. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo và xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Trần Văn H1 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội "Cướp tài sản" và 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 60 (Sáu mươi) tháng tù; Nguyễn Ngọc H3 36 (Ba mươi sáu) tháng tù và 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù; Nguyễn Ngọc L1 36 (Ba mươi sáu) tháng tù là nghiêm khắc.

Bi lẽ, trong hành vi cướp tài sản thì các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho Phạm Quang M1. Các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận, nhân thân chưa có tiền án tiền sự. Trong vụ án này người bị hại là anh Nguyễn Tuấn L3 cũng có lỗi, người bị hại nợ tiền anh Phạm Quang M1không chịu trả lại, 7 còn cắt đứt mọi liên lạc, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Nên cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giảm một phần hình phạt cho các bị cáo về tội “Cướp tài sản”; Đối với tội “Bắt giữ người trái pháp luật” thì hình phạt Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên giữ nguyên.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự Phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Chp nhận kháng cáo của Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 và Nguyễn Ngọc L1. Sửa bản án sơ thẩm số 284/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội về phần quyết định hình phạt.

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Trần Văn H1, Nguyễn Ngọc H3 phạm tội "Cướp tài sản" và tội "Bắt giữ người trái pháp luật"; Nguyễn Ngọc L1 phạm tội "Cướp tài sản".

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 168 và khoản 1 Điều 157; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 55, Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Trần Văn H1, 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội "Cướp tài sản"; 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt buộc Trần Văn H1 phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 54 (Năm mươi tư) tháng tú. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 168 và khoản 1 Điều 157; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 55, Điều 54; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nguyễn Ngọc H3, 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội "Cướp tài sản"; 12 (Mười hai) tháng tù về tội "Bắt giữ người trái pháp luật". Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Ngọc H3 phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 36 (Ba mươi sáu) tháng tú. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 05/5/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, 8 Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc L1, 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 05/5/2019.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Vê án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

c Bị cáo không phải nộp án phí Hình sự Phúc thẩm.

Bn án hình sự Phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

357
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2020/HS-PT ngày 06/05/2020 về tội cướp tài sản và tội bắt giữ người trái pháp luật

Số hiệu:267/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về