Bản án 267/2020/HS-PT ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 267/2020/HS-PT NGÀY 04/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 194/2020/TLPT-HS ngày 20/4/2020, đối với các bị cáo Hoàng N và Nguyễn Khánh H do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HS-ST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Hoàng N; sinh ngày 03/8/1982; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: N; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: 151/44 Huỳnh Văn B, Phường X, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề ngH: Sửa xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt N; con ông: Hoàng V và bà: Võ Thị N; vợ, con: chưa có vợ, con; tiền sự: Không.

- Tiền án: Ngày 26/6/2013, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tuyên phạt 07 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 125/2013/HSST; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/9/2018.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 27/6/2019 (Có mặt).

2. Nguyễn Khánh H; sinh ngày 27/02/1987; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: N; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 325/31/9 Phú Định, Phường X Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 120/16 Trần Bình Trọng, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề ngH: Sửa xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt N; con ông: Nguyễn N và bà: Trần Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Ngày 13/9/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 114/2014/HSST.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 27/6/2019 (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lại Văn Ngọc S, sinh năm 1998; cư trú: 53 Bàn Cờ, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Duy Khánh, sinh năm 1987; cư trú: Tổ 9, ấp Thành Nhân, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng N và Nguyễn Khánh H là bạn bè quen biết nhau. Vào tối ngày 27/6/2019, H gọi điện thoại cho N đến nhà H lấy ma túy đi giao cho khách thì N đồng ý. N điều khiển xe gắn máy biển số 64K1-18723 chạy đến nhà H tại khu vực Phường 2, Quận 5 thì gặp H đang đứng trước cửa nhà và H đưa cho N 01 bao thuốc lá hiệu 555, có sẵn ma túy ở bên trong. H nói N mang ma túy đến địa chỉ số 200 Nguyễn Biểu, Phường 2, Quận 5 chờ người đến để giao ma túy nhưng chưa kịp giao thì bị Tổ trinh sát về ma túy Công an Quận 5 bắt giữ. N khai trước đó đã đi giao ma túy cho H được 5 đến 6 lần. Mỗi lần đi giao ma túy cho khách xong, H cho N từ 500.000 đồng đến 800.000 đồng.

Tiếp tục điều tra mở rộng, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Khánh H tại số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5, thu giữ gồm có: 01 bịch nylong chứa tinh thể không màu, 01 viên nén hình tròn màu xanh đậm, 01 viên nén hình tròn màu xanh nhạt, 01 bịch nylong chứa chất bột màu trắng, 01 mảnh vụn màu xanh, 01 bịch nylong chứa chất bột màu xanh, 01 bịch nylong được hàn thành 03 ngăn ở mỗi ngăn chứa chất bột màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung, 01 điện thoại hiệu Nokia, 01 xe gắn máy hiệu FreeWay biển số 59A3-011.58 và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Khánh H Thời điểm bắt quả tang, Cơ quan điều tra còn phát hiện 04 đối tượng, gồm Trần Đức P, Huỳnh Thanh T, Nguyễn Văn B và Nguyễn Thị Ngọc T đang có mặt tại nhà số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Đức Phú khai: Qua mối quan hệ bạn bè, Phú biết Nguyễn Khánh H có bán ma túy nên vào khoảng 16h00’ ngày 27/6/2019, Phú gọi điện thoại cho Huỳnh Thanh Tâm để rủ Tâm đi đến nhà H mua ma túy về sử dụng. Phú sử dụng xe gắn máy chở Tâm đến nhà số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5 để gặp H. Đến nơi, Phú gọi điện cho H thì H hẹn một lát sau sẽ quay lại bán ma túy cho Phú, một lúc sau thì Công an đến mời Phú và Tâm về làm việc. Phú đã mua ma túy của H được 02 lần, lần thứ nhất vào ngày 23/6/2019, mua 800.000 đồng ma túy và lần thứ hai vào ngày 27/6/2019, mua 750.000 đồng ma túy nhưng chưa kịp mua thì bị Công an mời về trụ sở làm việc. Các lần mua ma túy đều diễn ra tại nhà H.

Nguyễn Văn B khai nhận: Qua bạn bè Bành biết Nguyễn Khánh H có bán ma túy nên vào ngày 27/6/2019 Bành đến nhà của H mua ma túy về sử dụng. Bành mua ma túy của H được 03 lần, mỗi lần 500.000 đồng ma túy đá, lần gần nhất vào ngày 20/6/2019 mua 500.000 đồng ma túy tại nhà của H.

Huỳnh Thanh T khai nhận: Vào ngày 27/6/2019, Trần Thanh P rủ T đi mua ma túy về sử dụng thì T đồng ý. Phú chở Tâm đến nhà số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5 để chờ mua ma túy nhưng chưa kịp mua thì bị Công an mời về trụ sở làm việc.

Nguyễn Thị Ngọc T khai nhận: Từ tháng 01/2019, Trâm thuê nhà số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5 để ở. Đến khoảng tháng 02/2019 thì H đến ở ghép cùng Trâm nhưng khác phòng. Việc H mua bán và sử dụng ma túy như thế nào Trâm không biết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Khánh H khai nhận: Vào tối ngày 27/6/2019, H được 01 thanh niên tên Bé (không rõ lai lịch) liên lạc hỏi mua ma túy đá với số tiền 10.000.000 đồng, H đồng ý bán và hẹn sẽ giao ma túy cho Bé tại địa chỉ số 200 Nguyễn Biểu, Phường 2, Quận 5. H gọi điện thoại cho Hoàng N đến nhà H để lấy ma túy giao cho Bé. Khoảng 22h00’ ngày 27/6/2019, N điều khiển xe gắn máy biển số 64K1-187.23 đến nhà gặp H thì H đưa cho N gói thuốc 555 có cất ma túy bên trong để N đến số 200 Nguyễn Biểu, Phường 2, Quận 5 giao cho Bé rồi lấy tiền mang về cho H. Khoảng 23h45’ cùng ngày thì có Công an đến bắt quả tang, khám xét chỗ ở của H và thu giữ số ma túy như nêu trên.

H khai số ma túy mà H đưa cho N (cất trong gói thuốc lá 555) để giao cho Bé và các chất ma túy thu giữ tại nhà, gồm:

- 01 bịch nylong chứa tinh thể không màu (m1) và 01 bịch nylong chứa chất bột màu trắng (m4); 01 viên nén hình tròn màu xanh đậm (m2); 01 viên nén hình tròn màu xanh nhạt (m3); 01 mảnh vụn màu xanh (m5); 01 bịch nylong chứa chất bột màu xanh (m6) - là của H mua của tên T (không rõ lai lịch):

- 01 bịch nylong chứa tinh thể không màu (m1) và 01 bịch nylong chứa chất bột màu trắng (m4) là các chất bột mua để pha thêm vào ma túy bán kiếm lời:

- 01 viên nén hình tròn màu xanh đậm (m2); 01 viên nén hình tròn màu xanh nhạt (m3); 01 mảnh vụn màu xanh (m5); 01 bịch nylong chứa chất bột màu xanh (m6) là của H mua để sử dụng không có ý định bán; 01 bịch nylong được hàn thành 03 ngăn, ở mỗi ngăn chứa chất bột màu trắng; chất bột màu đen; chất bột màu kem - do bạn bè đến nhà chơi để lại, H không biết là chất gì nhưng vẫn để tại nhà cho đến khi bị khám xét thu giữ.

H khai quen biết T khi cả hai chơi bắn cá ở khu vực Quận 5 từ Tết 2019. Do biết T có bán ma túy nên H mua về phân lại bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Lần đầu mua ma túy của T vào khoảng tháng 5/2019 và đã bán hết. Lần thứ hai vào ngày 10/5/2019, mua 8.000.000 đồng ma túy và 3.000.000 đồng chất bột để pha thêm trọng lượng ma túy để bán kiếm lời. Khi mua thì T còn đưa cho H 01 bịch khay và mấy viên ma túy tổng hợp dạng viên nén, số ma túy này H không bán mà để sử dụng cho bản thân.

Ngày 27/6/2019, khi tên Bé gọi điện hỏi mua thì H lấy ma túy đã mua của T đưa cho N đi giao cho Bé. Đối với Hoàng N, H khai quen N vì N từng mua ma túy của H để sử dụng. Ngoài lần đưa ma túy cho N đi giao cho Bé, trước đó N đã đi giao ma túy cho H khoảng 5 đến 6 lần. Mỗi lần đi giao ma túy cho khách xong, H cho N từ 500.000 đồng đến 800.000 đồng. Đối với Trần Đức Phú và Nguyễn Văn Bành, H khai đã từng bán ma túy cho Phú và Bành như lời khai của Phú và Bành. Riêng Huỳnh Thanh Tâm, H khai không quen biết. Đối với Nguyễn Thị Ngọc Tlà bạn ở ghép chung nhưng khác phòng nên ít gặp mặt. Việc H mua bán ma túy Trâm không biết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xét nghiệm (test) nhanh ma túy đối với Trần Đức P, Nguyễn Văn B, Huỳnh T và Nguyễn Thị Ngọc T, xác định cả 04 đều cho kết quả dương tính với ma túy.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5, Hoàng N và Nguyễn Khánh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng là ma túy thu giữ trong vụ án thể hiện tại bản Kết luận giám định số 1380/KLGĐ-H ngày 05/7/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 05 (năm) gói được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Nguyễn Khánh H và hình dấu Công an Phường 2, Quận 5, bên trong có:

- Gói 1: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon (ký hiệu mẫu m1), có khối lượng 117,8732g (một một bảy phẩy tám bảy ba hai gam), không tìm thấy ma túy:

- Gói 2: 01 (một) gói nylon chứa: 01 viên nén màu xanh đậm (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3832g (không phẩy ba tám ba hai gam), loại Methamphetamine; 01 viên nén màu xanh nhạt (ký hiệu mẫu m3) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3565g (không phẩy ba năm sáu năm gam), loại Ketamine:

- Gói 3: 01 (một) gói nylon chứa chất bột màu trắng (ký hiệu mẫu m4), có khối lượng 7,7701g (bảy phẩy bảy bảy không một gam), không tìm thấy ma túy:

- Gói 4: 01 (một) gói nylon chứa mảnh vụn màu xanh (ký hiệu mẫu m5) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2990g (không phẩy hai chín chín không gam), loại Methamphetamine:

- Gói 5: 01 (một) gói nylon chứa bột màu xanh (ký hiệu mẫu m6) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,0761g (một chín phẩy không bảy sáu một gam), loại Ketamine; 01 (một) gói nylon được hàn kín chia làm 03 ngăn chứa: Bột màu trắng trong ngăn thứ nhất (ký hiệu mẫu m7), có khối lượng 0,9302g (không phẩy chín ba không hai gam), không tìm thấy ma túy; Bột màu đen trong ngăn thứ hai (ký hiệu mẫu m8) là tiền chất, có khối lượng 1,3207g (một phẩy ba hai không bảy gam), loại Ephedrine; Bột màu vàng trong ngăn thứ ba (ký hiệu mẫu m9) là tiền chất, có khối lượng 1,2446g (một phẩy hai bốn bốn sáu gam), loại Ephedrine.

Tại bản kết luận giám định số 1382/KLGĐ-H ngày 05/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu (đựng trong 01 gói thuốc lá hiệu “555”) được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Hoàng N và hình dấu Công an Phường 2, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 28,0329g (hai tám phẩy không ba hai chín gam), loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HS-ST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:

Căn cứ điểm b, i, q khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: bị cáo Hoàng N 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019.

- Buộc bị cáo Hoàng N nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khánh H 11 (mười một) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo H phải chấp hành là 16 (mười sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019.

- Buộc bị cáo Nguyễn Khánh H nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 19/3/2020, bị cáo Hoàng N kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt. Ngày 25/3/2020, bị cáo Nguyễn Khánh H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hoàng N và Nguyễn Khánh H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích về tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm, các tình tiết định khung và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận, đủ căn cứ xác định bản án hình sự sơ thẩm xét xử: bị cáo Nguyễn Khánh H về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 và điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); và bị cáo Hoàng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); là có cơ sở pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định và hợp lệ nên cần được xem xét.

Về nội dung kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới để được xem xét. Mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Khánh H, Hoàng N và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình và mong muốn nhận được mức án khoan hồng để có cơ hội sớm chấp hành xong bản án, làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cùng đồng phạm, phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, lời khai của (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng), bản kết luận giám định, cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Xét, đã đủ cơ sở để kết luận: Do là bạn bè quen biết, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo Hoàng N đã giúp sức cho bị cáo Nguyễn Khánh H thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” để được H trả công hưởng lợi.

Vào tối ngày 27/6/2019, khi bị cáo Hoàng N nhận ma túy từ bị cáo Nguyễn Khánh H mang đến nơi hẹn để bán ma túy cho Bé (không rõ lai lịch) đã liên hệ mua ma túy của H trước đó thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 28,0329g (hai tám phẩy không ba hai chín gam), loại Methamphetamine. Tính đến ngày bắt quả tang, trước đó bị cáo Hoàng N đã 05 đến 06 lần nhận ma túy của bị cáo Nguyễn Khánh H mang đi bán cho khách để được H trả công mỗi lần từ 500.000 đến 800.000 đồng. Ngoài ra, Nguyễn Khánh H còn trực tiếp bán ma túy cho nhiều người nghiện. Trong đó, 02 lần bán ma túy cho Trần Đức Phú (lần thứ nhất vào ngày 23/6/2019, bán 01 gói ma túy đá với giá 800.000 đồng và lần thứ hai vào ngày 27/6/2019, bán 01 gói ma túy đá giá 750.000 đồng nhưng chưa kịp mua bán thì bị Công an phát hiện mời Phú về trụ sở làm việc; bán cho Nguyễn Văn Bành 03 lần, mỗi lần 500.000 đồng ma túy đá, lần gần nhất vào ngày 20/6/2019.

Đối với bị cáo Nguyễn Khánh H, còn có hành vi sử dụng địa điểm do mình quản lý để cất giấu trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân và để cho bạn bè (không rõ lai lịch) cất giấu trái phép nhưng không nhằm mục đích mua bán. Qua khám xét tại nơi ở của bị cáo Nguyễn Khánh H tại địa chỉ nhà số 120/16 Trần Bình Trọng, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an còn thu giữ toàn bộ các chất ma túy ở thể rắn, bao gồm: 0,6832g (không phẩy sáu tám hai hai gam), loại Methamphetamine và 19,4326g (mười chín phẩy bốn ba hai sáu gam), loại Ketamine.

Toàn bộ vật chứng là ma túy thu giữ của các bị cáo, kết quả trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra thể hiện tại các bản kết luận giám định số 1380/KLGĐ-H và số 1382/KLGĐ-H ngày 05/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét, các bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N đã đồng phạm nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy (trong đó mỗi lần đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm và chưa bị xử lý) và ma túy ở thể rắn dùng để mua bán có khối lượng 28,0329g, loại Methamphetamine; nên đã phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội hai lần trở lên” và “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”. Riêng bị cáo Hoàng N về nhân thân đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là tội rất nghiêm trọng do cố ý nay lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Đây là những tình tiết định khung trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

Đối với bị cáo Nguyễn Khánh H còn có hành vi cất giấu trái phép các các chất ma túy ở thể rắn, bao gồm: 0,6832g, loại Methamphetamine và 19,4326g, loại Ketamine nhưng không nhằm mục đích mua bán; thuộc trường hợp “Có 02 chất ma túy trở lên mà khối lượng tương đương chất ma túy theo quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm h khoản này” .

Như vậy, với khối lượng ma túy dùng để mua bán cũng như cất giữ trái phép và hành vi nêu trên của các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo: Nguyễn Khánh H về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 và điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); và bị cáo Hoàng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Xét về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19/3/2020, bị cáo Hoàng N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và ngày 25/3/2020, bị cáo Nguyễn Khánh H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; là làm trong thời hạn theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm và các tình tiết: tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đối với bị cáo Nguyễn Khánh H, phạm nhiều tội bị xét xử trong một lần và xử phạt tù nên cần tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét về tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo. Mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh H 11 (mười một) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung là 16 (mười sáu) năm 06 (sáu) tháng; và xử phạt bị cáo Hoàng N 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; là thỏa đáng, không nặng, phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án và đã thể hiện sự khoan hồng của pháp luật; mới đủ tác dụng để răn đe, giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung.

Xét, các bị cáo Nguyễn Khánh H và Nguyễn Hoàng N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới để được xem xét nên không có cơ sở để được chấp nhận và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm Nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử cũng là căn cứ để chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm.

+Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

+Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Khánh H, Hoàng N và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HS-ST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

+Căn cứ vào các điểm b, i khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; và Điều 55 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khánh H 11 (Mười một) năm tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Khánh H phải chấp hành chung là 16 (Mười sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2019.

- Buộc bị cáo Nguyễn Khánh H nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng để sung ngân sách Nhà nước.

+Căn cứ vào điểm b, i, q khoản 2 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: Bị cáo Hoàng N 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2019.

- Buộc bị cáo Hoàng N nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung ngân sách Nhà nước.

+Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Khánh H và Hoàng N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2020/HS-PT ngày 04/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:267/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về