Bản án 267/2019/HSST ngày 18/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 267/2019/HSST NGÀY 18/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 12 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 274/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 274/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Lê Văn H. Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1996, tại Hải Dương; Giới tính: Nam; HKTT: số 02/36 A, phường B, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Họ tên cha: Lê Văn T, sinh năm: 1969; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị V.A, sinh năm: 1972; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình;

Nhân thân: Không có tiền án, tiền sự Tạm giữ: 29/8/2019 Hủy bỏ tạm giữ ngày 04/9/2019.

Hiện nay bị cáo Lê Văn H đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/8/2019, tổ công tác Y9-141 Công an thành phố Hà Nội phối hợp với công an phường C – quận H làm nhiệm vụ tại chốt ĐB-C (trước cửa số nhà 7 NTH), phường C, quận H, thành phố Hà Nội, phát hiện 01 xe taxi BKS: 30A-830.40 trên xe chở nhiều nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, trên xe có 05 người, gồm: Trần Công S (sinh năm: 1969; HKTT: Xã XX, huyện XT, tỉnh Nam Định, là lái xe taxi), Lê Văn H (sinh năm: 1996; HKTT: Số 2/36 A, phường B, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương), Vũ V. H (sinh năm 1997; HKTT: Thị trấn D, huyện D, tỉnh Hải Dương), Lê V. T(sinh năm: 1999; HKTT: Xã N, huyện T, tỉnh Nam Định), Vũ Th (sinh năm 1986; HKTT: 39 ngách 162/130 KK, quận KX, TP Hà Nội). Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên tay phải của Lê Văn H có 01 túi ni lông kích thước 4x6cm, bên trong chứa 05 viên nén hình vuông màu cam. Tại chỗ, H khai nhận 05 viên nén trên là ma túy tổng hợp dạng “kẹo”, H mang đi mục đích để sử dụng. Tiến hành kiểm tra các đối tượng đi cùng Lê Văn H, không phát hiện và thu giữ gì. Ngay sau đó, tổ công tác đã tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa Lê Văn H cùng các đối tượng về trụ sở CA phường C làm rõ.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01 túi đeo chéo màu đen và 01 điện thoại Iphone 6S màu ghi (đã qua sử dụng) số Imel: 353310070676750 của Lê Văn H; 01 điện thoại Iphone X màu vàng, Imel: 3572060938503664 của Vũ V. H; 01 điện thoại Samsung màu đen, Imel 1: 356259102379700/01, Imel 2:

356260102379708/01 của Lê V. T; 01 điện thoại Iphone X màu trắng, Imel:

353044096735783; 01 iphone 6S màu bạc, Imel: 355416074557272 của Vũ Th.

Tại bản giám định số 5646/KLGĐ - PC09 ngày 05/9/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội kết luận 05 viên nén hình vuông màu cam có tổng khối lượng 1,794 gam đều là ma túy loại MDMA (BL: 52) Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn H đã khai nhận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 28/8/2019, H đi đến khu vực đường M, thành phố Hải Dương tìm mua ma túy tổng hợp “kẹo” để sử dụng. Tại đây, H đã gặp 01 nam thanh niên khoảng 19 tuổi (không rõ tên tuổi, địa chỉ) mua 05 viên ma túy tổng hợp “kẹo” hình vuông, màu cam được đựng trong 01 túi ni lông kích thước 4x6cm với giá 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, H cất trong túi đeo chéo mang theo người với mục đích để khi nào có nhu cầu thì mang ra sử dụng. Sau đó, Lê Văn H điện thoại cho Vũ V. H là bạn quen biết xã hội, hẹn nhau ra Hà Nội chơi. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Lê Văn H và Vũ V. H có mặt tại quán bia 174 NK, BĐ, Hà Nội. Tại đây, có thêm T và Th (là bạn của Vũ V. H) đến ngồi cùng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, cả nhóm rủ nhau tiếp tục lên quán bar tại địa chỉ 41 K, H, Hà Nội để chơi, Th không đi vì bận công việc. Lúc này, Lê Văn H có gọi xe taxi để đi, Th xin đi nhờ cùng mọi người vì cùng tuyến đường. Khi lên xe taxi, Lê Văn H đã lấy túi ma túy cất trong túi đeo chéo ra và cầm trên tay phải của mình. Khi xe taxi đi đến trước cửa số 7 NTH, phường C, quận H, Hà Nội thì bị tổ công tác 141 – Công an TP Hà Nội yêu cầu dừng xe kiểm tra và bị bắt quả tang như đã nêu trên. Khi Lê Văn H mua ma túy và mang ma túy trong người từ Hải Dương lên Hà Nội để chơi và uống bia cùng nhóm Vũ V. H, T, Th thì Vũ V. H, T, Th đều không biết và không liên quan.

Tại Cơ quan điều tra Vũ V. H, Lê V. T, Vũ Th, Trần Công S đều khai phù hợp với lời khai của Lê Văn H và không biết, không liên quan đến việc Lê Văn H tàng trữ trái phép chất ma túy. Kết quả xét nghiệm chất ma túy bằng que thử 4 chân xác định Vũ V. H, Lê V. T, Vũ Th, Trần Công S đều âm tính với ma tuý; kiểm tra điện thoại không phát hiện nội dung liên quan đến vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý và đã trả lại cho các đối tượng.

Đối với người đã bán ma túy cho Lê Văn H, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành dẫn giải Lê Văn H đến khu vực đường M, thành phố Hải Dương nhưng H không tìm được đối tượng đã bán ma tuý cho H, không biết rõ tên tuổi, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có căn cứ tiếp tục xác minh, xử lý.

Tại bản cáo trạng số 260/CT-VKS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đã truy tố Lê Văn H tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận như khai tại Cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ quyền công tố sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đã ban hành, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt phụ là hình phạt tiền, tịch thu tiêu hủy ma túy và 01 túi đeo chéo màu đen, trả lại tài sản đã thu giữ của bị cáo là 01 điện thoại Iphone 6S màu ghi (đã qua sử dụng) số Imel:

353310070676750, sim số 0963144364.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, xin hứa không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/8/2019, Lê Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 05 viên nén hình vuông màu cam đều là ma túy loại MDMA, có tổng khối lượng 1,794 gam mục đích nhằm để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật tại trước cửa số nhà 7 NTH, phường C, quận H, Hà Nội.

Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét nhân thân bị cáo: bị cáo có ông nội là Lê Mạnh Nh được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo được hưởng tính tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Không có. ......

[6] Về quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hơn nữa, bị cáo được giáo dục cải tạo, giúp bị cáo nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

[6.1] Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 29/8/2019 đến ngày 04/9/2019 được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

[7] Về hình phạt phụ bổ sung: Bị cáo hiện nghề nghiệp tự do nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về Biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu huỷ 1,794 gam MDMA. Trả lại tài sản đã thu giữ của bị cáo là 01 túi đeo chéo màu đen và 01 điện thoại Iphone 6S màu ghi (đã qua sử dụng) số Imel: 353310070676750.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Án phí hình sự: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Áp dụng:

- Điều 249 khoản 1 điểm c; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015;

- Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

2. Tuyên bố: LÊ VĂN H phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

3. Xử phạt: LÊ VĂN H 30 (BA MƯƠI) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ 29/8/2019 đến 04/9/2019.

4. Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong trên các mép có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Quân, người chứng kiến Trần Công S và những người liên quan, bên trong có một túi ni lông màu trắng kích thước 04x06cm chứa 05 viên nén màu cam, có tổng khối lượng 1,794 gam ma túy loại MDMA, phòng PC09 thu mẫu giám định 0,370 gam, khối lượng còn lại 1,424 gam.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 túi đeo chéo màu đen và 01 điện thoại Iphone 6S màu ghi (đã qua sử dụng) số Imel: 353310070676750.

Số vật chứng trên hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 17/12/2019.

5. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2019/HSST ngày 18/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:267/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về