Bản án 267/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 267/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 131 /2019/HSST ngày 25 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2019/HSST-QĐ ngày 12/8/2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn D, sinh năm 1996 tại Thành phố Cần Thơ; thường trú: Ấp P xã B, huyện L, Thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1978 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977; bị cáo có 01 em ruột sinh năm 1998; tiền sự, tiền án: Không có. Bị bắt tạm giam ngày 9/11/2018, có mặt.

2. Nguyễn Trọng P, sinh năm 2000 tại Thành phố Cần Thơ; thường trú: Ấp L, xã B huyện L, Thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 1976 và con bà Nguyễn Kim C, sinh năm 1977; tiền sự, tiền án: Không có. Bị tạm giữ từ ngày 01/11/2018 đến ngày 10/11/2018 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bị bắt truy nã ngày 25/8/2019, có mặt.

Người bào chữa: Ông Cao Ngọc L – Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương bào chữa cho bị cáo P, có mặt.

Bị hại: Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Vân Long. Người đại diện ông Nguyễn Minh Khánh; địa chỉ: Khu phố 6, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

1. Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1978; thường trú: Ấp P xã B, huyện L, Thành phố Cần Thơ, vắng mặt.

2. Anh Trần Đình N, sinh năm 1998; thường trú: Xã L thị xã L, tỉnh Bình Phước, vắng mặt.

3. Anh Lý Thanh L, sinh năm 1994; thường trú: Phường 2, thị xã N tỉnh Sóc Trăng, vắng mặt.

4. Công ty quản lý bất động sản Long Vân, người đại diện theo ủy quyền ông Trần Văn C, sinh năm 1966; địa chỉ: Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

5. Ông Nguyễn Trọng N, sinh năm 1976, có mặt.

6. Bà Nguyễn Kim C, sinh năm 1977, có mặt.

Cùng thường trú: Ấp L xã B, huyện L, tỉnh Cần Thơ.

- Người làm chứng : Anh Đỗ Duy P, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 30/10/2018, bị cáo Nguyễn Văn D rủ bị cáo Nguyễn Văn P đến bãi giữ xe chung cư Charm Plaza lấy xe mô tô. Khi đến P đứng ngoài cảnh giới, D vào trong bãi xe của chung cư lấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Satria biển số 93E1-20.300 của anh Trần Đình N dắt ra ngoài cổng chung cư giao P giữ, D tiếp tục đi vào trong bãi xe lấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winer biển số 83E1-148.95 của anh Lý Thanh L dắt ra. D dùng kéo mang theo cắt dây điện ổ khóa đấu nối cho 02 xe mô tô nổ máy. P điều khiển xe mô tô biển số 83E1-148.95, D điều khiển xe mô tô biển số 93E1-20.300 đi về phòng ở trọ tại phường Định Hòa, Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sáng ngày 31/10/2018, D điều khiển xe mô tô biển số 83E1148.95 về Thành phố Cần Thơ bán cho một người không rõ lai lịch được 10.000.000 đồng. Ngày 01/11/2018, P điều khiển xe mô tô biển số 93E1-20.300 lưu thông trên địa bàn Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bị anh Trần Đình N phát hiện, trình báo Công an phường Định Hòa, Thành phố Thủ Dầu Một, P thừa nhận việc chiếm đoạt xe của anh N.

Ngày 09/11/2018, bị cáo Nguyễn Văn D đến công an huyện Thới Lai, Thành phố Cần Thơ đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản.

Vật chứng thu giữ và xử lý: Xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Satria biển số 93E1-20.300 đã trả lại anh Trần Đình N.

Kết luận định giá tài sản số 314/BB.ĐG ngày 19/11/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, trị giá xe mô tô Honda Winer biển số 83E1- 148.95 trị giá 30.000.000 đồng, xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Satria biển số 93E1- 20.300 trị giá 55.000.000 đồng. Tổng giá trị hai xe 85.000.000 đồng.

Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 0943 ngày 23/11/2018 của trung tâm pháp y sở y tế Đồng Nai. Bị cáo Nguyễn Trọng P có độ tuổi 18 tuổi 04 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 20/11/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Đình N không có yêu cầu bồi thường. Đối với xe mô tô Honda Winer biển số 83E1-148.95 trị giá 30.000.000 đồng của anh Lý Thanh L, bị cáo D bán không thu hồi được, anh L yêu cầu được bồi thường.

Gia đình bị cáo D đã bồi thường cho anh L 6.000.000 đồng. Công ty TNHH MTV dịch vụ bảo vệ Vân Long bồi thường cho anh L 24.000.000 đồng, gia đình bị cáo P bồi thường cho Công ty TNHH MTV dịch vụ bảo vệ Vân Long 4.000.000 đồng. Đại diện Công ty TNHH MTV dịch vụ bảo vệ Vân Long yêu cầu bị cáo P, D bồi thường 20.000.000 đồng.

Cáo trạng số 156/CT- VKS ngày 24/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn P về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù p dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 90, 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng P từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận việc bị cáo D, P đồng ý bồi thường cho Công ty TNHH MTV dịch vụ bảo vệ Vân Long số tiền 20.000.000 đồng.

Người bào chữa cho bị cáo P: Bị cáo P phạm tội do bị rủ rê, bị cáo phạm tội là người dưới 18 tuổi, khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Ngoài tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát viện dẫn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo P có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo nhất thời phạm tội để có mức hình phạt thấp nhất đối với bị cáo.

Đại diện bị hại không tranh luận, không bào chữa. Đề nghị Hội đồng xét xử xử các bị cáo theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Trọng N, bà Nguyễn Kim C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo P, vì hiện tại hoàn cảnh khó khăn không có khả năng bồi thường ngay cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng.

Bị cáo D, P không tranh luận, không bào chữa. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo D, P xin được giảm nhẹ mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 09/11/2018, lời khai đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, kết luận định giá, biên bản ghi lời khai các bị cáo, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện. Khoảng 21 giờ ngày 30/10/2018, bị cáo Nguyễn Văn D rủ bị cáo Nguyễn Văn P đi chiếm đn, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tại đây P đứng ngoài cảnh giới, D đi vào bãi xe tiếp cận xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Satria biển số 93E1-20.300 của anh Trần Đình N trị giá 55.000.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Hoạt tài sản, sau đó D và P đến bãi giữ xe tại chung cư Charm Plaza địa chỉ khu phố Thống Nhất 1, phường Dĩ Aonda Winer biển số 83E1-148.95 của anh Lý Thanh L trị giá 30.000.000 đồng lần lượt dẫn ra sau đó cùng P mang đi tiêu thụ. Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo D, P đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, quy định điểm c (chiếm đoạt tài sản trị giá 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng) khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 156/CT-VKS-DA ngày 24/4/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D rủ bị cáo P phạm tội, thời điểm phạm tội P là người dưới 18 tuổi thuộc trường hợp xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; bị cáo D, P phạm tội 02 lần trở lên. Tình tiết trên quy định điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo D, P thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tài sản thiệt hại đã được thu hồi 01 phần, gia đình bị cáo D, P đã bồi thường được 01 phần tài sản thiệt hại, bị cáo D đã ra đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo D, P có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo D, P phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 07 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật qui định mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương.

Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Trong vụ án có đồng phạm. Bị cáo D là người rủ rê bị cáo P phạm tội, các bị cáo cùng tham gia với vai trò người thực hành. Vì vậy, mức hình phạt bị cáo D phải cao hơn so với bị cáo P.

[4] Đối với bị cáo P khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người dưới 18 tuổi khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng chương XII những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để xem xét xử phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Vân Long, người đại diện anh Nguyễn Minh K yêu cầu bị cáo D, P bồi thường 20.000.000 đồng. Bị cáo D, P đồng ý bồi thường mỗi bị cáo số tiền 10.000.000 đồng. Do vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, trách nhiệm dân sự và mức hình phạt đối với bị cáo D. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt bị cáo P có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xử mức hình phạt bị cáo P thấp hơn mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[7] Đối với bài bào chữa của người bào chữa cho bị cáo P phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo D, P phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Trọng P phạm tội Trộm cắp tài sản.

1.1 Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2018.

1.2 Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 90, 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng P 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2019, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ từ ngày 01/11/2018 đến ngày 10/11/2018.

2. Các biện pháp tư pháp:

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 587 và 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Trọng P liên đới bồi thường cho bị hại Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Vân Long số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), chia phần mỗi bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Đối với bị cáo Nguyễn Trọng P nếu không đủ tài sản bồi thường thì cha, mẹ bị cáo là ông Nguyễn Trọng N và bà Nguyễn Kim C phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Theo quy định khoản 2 Điều 586 Bộ luật dân sự 2015

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, b khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Trọng P mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:267/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về