Bản án 266/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 266/2018/HSST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 354/2018/HSST ngày 10/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2018/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Đăng T - Sinh năm 1991; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Giới tính: nam; Quốc Tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; con ông: Lê Đăng K. Sinh năm 1969; con bà: Trần Thị V - sinh năm 1968; Vợ: Nguyễn Thu H – Sinh năm 1996; có một con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/8/2018. Tạm giam 17/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 19h30’ ngày 13/8/2018, tại khu vực cổng chui vào khu công nghiệp H, thuộc phố P, phường T, thành phố T, tổ công tác của phòng cảnh sát điều tra tộiphạm về ma túy công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện, bắt quả tang Lê Đăng T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu trong túi quần trái của Lê Đăng T là: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể. Tổ công tác thu giữ của T 01 gói ni lon màu trắng, 01 xe máy BKS 36B4- 636.17, 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model RM 1190 và 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model TA 1034.

Quá trình điều tra Tâm khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 18h30’ ngày 13/8/2018 Lê Đăng T điều khiển xe máy BKS 36B4 - 636.17 đi đến khu vực phường N, thành phố T mua 01 gói ma túy đá của một thanh niên không quen biết với giá 2.000.000đ rồi cất dấu trong người với mục đích mang về nhà để sử dụng dần. T chưa kịp sử dụng thì bị công an phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận giám định số: 1709/MT- PC 54 ngày 15/8/2018 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể có trong túi nilon màu trắng thu giữ của Lê Đăng T là ma túy, có tổng trọng lượng 3,610 gam loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lê Đăng T tại khu vực phường N, thành phố Thanh Hóa do T không biết tên và địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Đối với 01 xe môtô BKS 36B4-636.17 hiệu Hon đa Ware Anpha màu trắng đen, qua điều tra, nguồn gốc là của chị Nguyễn Thu H, sinh năm 1996; trú tại: Thôn P xã H, huyện H tỉnh Thanh Hóa ( là vợ Lê Đăng T) việc T sử dụng làm phương tiện phạm tội chị Hương không biết nên cơ quan điều tra đã trả cho chị H.

Cáo trạng số 265CT-VKSTP ngày 08/10/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Lê Đăng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố T luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điểm a khoản 2 Điều 106 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù, tịch thu tiêu hủy số ma túy sau giám định, sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động Nokia.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Do nghiện ma túy, khoảng 18h ngày 13/8/2018 T đi đến khu vực phường N, thành phố T mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ 01 gói ma túy với giá 2.000.000đ có tổng trọng lượng 3,610gam mục đích mang về nhà cất dấu để sử dụng, T đi đến khu vực cổng chui vào khu công nghiệp H, phường T, thành phố T thì bị tổ công tác của phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy kiểm tra phát hiện bắt quả tang T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội đã đánh giá đúng tính chất hành vi nguy hiểm của tội phạm, đồng thời vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Đăng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đăng T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tội danh và khung hình phạt áp dụng xét xử đối với bị cáo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

 [2]. Bị cáo là đối tượng biết rõ ma túy có tác hại nhiều mặt đến đời sống trong các quan hệ xã hội, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa lành mạnh. Đặc biệt ma túy còn là một trong những tác nhân làm lây truyền căn bệnh HIV/AIDS phát triển, nhất là đối với những người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, vì có tác hại như vậy nên nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục, nhằm ngăn chặn các tệ nạn và hoạt động có liên quan đến ma túy. Trong vụ án này bị cáo vì nghiện ma túy dẫn đến phạm tội, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn tạo ra dư luận xấu trong nhân dân, tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

 [3] Nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, nhưng lại là đối tượng nghiện ma túy, phạm loại tội nghiêm trọng. Vì lẽ đó cần phải cách ly khỏi xã hội để bị cáo có thời gian cải tạo, sữa chữa sai phạm, tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là thành khẩn khai báo, theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Pháp luật.

Trong vụ án này bị cáo mua Heroin nhằm mục đích sử dụng, do đó không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [4] Về vật chứng: Toàn bộ số Hêrôin thu được của bị cáo sau giám định có trọng lượng 3,458gam loại Methamphetamine là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model RM - 1190 và 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model TA 1034 cả hai điện thoại đã cũ, cần áp dụng khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy và sung công quỹ nhà nước.

 [5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Đăng T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đăng T: 24 ( Hai tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2018.

Vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 3,458 gam Methamphetamine (sau giám định) được niêm phong tại phong bì và có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; Sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model RM 1190 và 01 điện thoại di động Nokia màu đen, model TA 1034 cả hai điện thoại đã cũ. Hiện tang vật đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng số 14 THA ngày 16/10/2018.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 266/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:266/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về