TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 264/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 269/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Trung H, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 31/10/2002; Nơi sinh: Đ, Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn HL, xã SP, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Chí; Tôn giáo:
Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Trần Văn T, đã chết, con bà: Hầu Thị D, sinh năm 1974; Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 2 chị em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.
* Những người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1989 Trú tại: Xóm NH, xã QT, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1 Hồi 11 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, tổ công tác của Công an xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại xóm NH, xã QT, thành phố T thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma tuý, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Đối tượng tự khai tên là Trần Trung H và thu giữ trong túi quần bò phía sau bên phải H đang mặc 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng (H khai là ma túy Heroine). Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phongvật chứng và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với H.
Tiến hành cân số chất bột màu trắng thu giữ của Trần Trung H ngày 13/4/2021, có khối lượng 0,185 gam, lấy 0,080 gam gửi giám định ký hiệu H.
Tại bản kết luận giám định số 843/KL-KTHS ngày 14/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,185 gam.
Tại bản kết luận giám định số 2883/KL-KTHS ngày 20/4/2021 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu H gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine.
Tại Cơ quan điều tra Trần Trung H khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 13/4/2021, H thuê xe ôm của 01 người không quen biết từ khu vực cổng trường đại học Nông lâm Thái Nguyên đến gần Nhà văn hóa xóm NH, xã QT, thành phố Thái Nguyên thì xuống xe đi tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây H gặp một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ và mua 200.000 đồng, người đàn ông đưa cho H 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất ma túy. Sau khi mua xong H cất gói Heroine vào túi quần phía sau bên phải đang mặc đi bộ tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã QT, thành phố T bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Vật chứng vụ án gồm: 02 (hai) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu H1 và 2883/C09-TT2 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.
Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 281/CT-VKSTPTN ngày 25/5/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Trung H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Trung H từ 18 đến 24 tháng tù.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu H1 và 2883/C09-TT2 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.
- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.
Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.
Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Hồi 11 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, tại xóm NH, xã QT, thành phố T, tổ công tác của Công an xã QT, thành phố T bắt quả tang Trần Trung H đang có hành vi tàng trữ 0,185 gam Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương.Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...
c) Methaphetamine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện chất ma túy. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3]. Vật chứng của vụ án: 02 (hai) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu H1 và 2883/C09-TT2 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.
Trong vụ án này, bị cáo Trần Trung H khai mua ma túy của 01 người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vực xã QT, thành phố T. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Trần Trung H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Trần Trung H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) bì niêm phong theo quy định, ký hiệu H1 và 2883/C09-TT2.
(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/5/2021 giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Trần Trung H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 264/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 264/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về