Bản án 264/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 264/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 304/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng H; sinh ngày: 01/01/1987; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hoàng V và bà: Đào Thị D; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam: từ ngày 30/3/2019 (có mặt tại phiên tòa).

B hại: bà Lê Thị Thu H - sinh năm: 1988

Địa chỉ: phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người làm chứng: anh Nguyễn Minh T - sinh năm: 1987

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Nguyễn Trọng H là người nghiện ma túy. Để có tiền sử dụng ma túy, Hiền nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Lúc 19 giờ ngày 30/3/2019, H điều khiển xe mô tô biển số 49V9-XXX đi lòng vòng quận Thủ Đức để tìm tài sản. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến trước nhà số XXX đường tỉnh lộ 43, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức thì H nhìn thấy anh Nguyễn Minh T điều khiển xe mô tô lưu thông phía trước cùng chiều, phía sau chở vợ tên Lê Thị Thu H. Trên cổ chị H có đeo 01 sợi dây chuyền vàng 18K có mặt bằng đá nên H vượt lên trên áp sát bên phải chị H, dùng tay trái giật lấy sợi dây chuyền của chị H, làm đứt sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bị rơi không thu hồi được. Lúc này xe của H vướng vào xe do anh T điều khiển nên H bị ngã xe, bị anh T bắt giữ chuyển đến Công an phường Bình Chiểu lập hồ sơ xử lý. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Thủ Đức, Nguyễn Trọng H bị bắt đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 sợi dây chuyền vàng 18K (đã trả bị hại)

- 01 mặt dây chuyền gắn đá màu trắng (không thu hồi được).

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 49V9-xxx

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 694/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 02/5/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức, kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng 18K có trọng lượng 2,2 chỉ có giá 6.063.000 đồng, mặt dây chuyền vàng 18K gắn đá màu có giá trị 1.378.000 đồng, tổng giá trị 7.441.200 đồng.

Về phần dân sự: chị Lê Thị Thu H nhận lại sợi dây chuyền, yêu cầu bồi thường mặt dây chuyền bằng trị giá tài sản.

[2] Bản Cáo trạng số 256/CT-VKSTĐ ngày 01/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 03 (ba) đến 04 (bốn) năm tù. Phần dân sự và vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Trọng H không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trọng H phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi cướp giật tài sản của bị hại bà Lê Thị Thu H. Tài sản chiếm đoạt là 01 sợi dây chuyền vàng 18K có trọng lượng 2,2 chỉ có giá 6.063.000 đồng, mặt dây chuyền vàng 18K gắn đá màu có giá trị 1.378.000 đồng, tổng giá trị 7.441.200 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Trọng H đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì động cơ vụ lợi, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của Nhà nước. Tính nguy hiểm của hành vi bị cáo thực hiện còn thể hiện ở việc bị cáo sử dụng thủ đoạn nguy hiểm, dùng xe gắn máy có phân khối lớn cướp giật tài sản của người bị hại ngồi trên xe gắn máy đang lưu thông, hành vi này có khả năng gây nguy hiểm cho người bị hại và những người khác lưu thông trên đường, đây là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm d khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự. Về nhân thân bị cáo từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng từ ngày 15/8/2013 đến ngày 15/8/2015, sau khi về địa phương đến nay bị cáo lại tiếp tục sử dụng ma túy. Trong vụ án này bị cáo thừa nhận mục đích bị cáo cướp giật tài sản của bị hại để thỏa mãn cơn nghiện. Vì vậy cần xử lý bị cáo với mức án nghiêm phù hợp với tính chất, hành vi, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: chị Lê Thị Thu H đã nhận lại sợi dây chuyền và yêu cầu bị cáo bồi thường mặt dây chuyền bằng trị giá tài sản. Căn cứ kết quả định giá trong tố tụng hình sự, mặt dây chuyền gắn đá màu trắng của chị H bị mất do không thu hồi được do bị cáo gây ra có giá trị 1.378.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại, do đó Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 49V9-xxx, qua xác minh không có dữ liệu thông tin tại Phòng Cảnh sát giao thông. Tiếp tục xác minh xe có số khung RLCS5C6K0DY067xxx và số máy 5C6K-067xxx, kết quả trùng khớp với xe mô tô có biển số là 65F1-xxx. Kết quả số khung, số máy không thay đổi. Chủ sở hữu tên Phan Thành L, hộ khẩu tại phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Xác minh tại địa chỉ trên anh Long không có mặt tại địa phương nên không ghi được lời khai. Bị cáo khai xe mua của người đàn ông không rõ lai lịch giá 2.800.000 đồng vào tháng 01/2019 và sử dụng làm phương tiện phạm tội. Xét thấy xe không xác định được chủ sở hữu, nên cần thông báo tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe trên, nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước. Đối với biển số xe 49V9-xxx tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2019.

- Căn cứ điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1 Điều 589; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H bồi thường cho chị Lê Thị Thu H số tiền 1.378.000 đồng (một triệu ba trăm bảy mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu người phải thi hành án chưa trả số tiền nêu trên, thì người phải thi hành án, còn phải trả tiền lãi của số tiền gốc chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của xe mô tô hiệu Yamaha Sirius có số khung RLCS5C6K0DY067xxx và số máy 5C6K-06734 (có biển số 65F1-xxx trùng khớp với số khung số máy xe Yamaha Sirius nêu trên). Hết thời hạn 6 tháng mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy biển số xe 49V9-xxx.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/208 ngày 26/7/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức)

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Trọng H chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 264/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:264/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về