Bản án 264/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 264/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 281/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Lâm Thành T, sinh năm 1999 tại tỉnh An Giang; Thường trú: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Lâm Thành T, sinh năm 1966 và bà Lê Thị T, sinh năm 1963; có 02 anh em ruột, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 03/3/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Trần Thanh T, sinh năm 2001; địa chỉ: Tổ 11, ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn L; vắng mặt.

2. Nguyễn Tiến Đ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 03/3/2019, Công an phường Tân Bình tuần tra trên địa bàn phường. Khi đến đường Bùi Thị Xuân, đoạn thuộc khu phố Tân Phú 1, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, lực lượng tuần tra phát hiện Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô biển số 64K1-268.14 chở Lâm Thành T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện trong túi quần trước bên phải Lâm Thành T đang mặc có một gói thuốc Jet bên trong có 02 gói nilon hàn kín bên trong có tinh thể màu trắng. T khai nhận là ma túy đá, mua của một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) tại chợ Phú Hà, thuộc phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương lúc 22 giờ ngày 02/3/2019 và đem ma túy về phòng cất giữ. Đến khoảng 03 giờ ngày 03/3/2019, T rủ L đi sang Biên Hòa chơi và bị Công an kiểm tra phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang.

Tang vật tạm giữ: 02 gói nilon hàn kín bên trong có tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số 64K1-268.14; 01 điện thoại di động hiệu Sony có sim số 0978644214.

Căn cứ kết luận giám định số 212/MT-PC09 ngày 11/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,4632 gam (BL 27).

Đối với xe mô tô biển số 64K1-268.14 là của anh Trần Thanh T, anh T cho L mượn, L chở T đi chơi và L không biết Tấn cất giữ ma túy, nên đã trả lại cho anh T.

Đối với người tên H bán ma túy cho T tại khu vực chợ Phú Hà, thuộc phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 226/CT-VKS ngày 27 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lâm Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lâm Thành T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,4632 gam, loại chất Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; sim số 0978644214 không có giá trị nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với điện thoại di động hiệu Sony của bị cáo T sử dụng, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 04 giờ ngày 03/3/2019, tại đường Bùi Thị Xuân, đoạn thuộc khu phố Tân Phú 1, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an phường Tân Bình tuần tra thấy Nguyễn Văn L và Lâm Thành T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện trong túi quần trước bên phải Lâm Thành T đang mặc có một gói thuốc Jet bên trong có 02 gói nilon hàn kín bên trong có tinh thể màu trắng. Tấn khai nhận là ma túy đá T mua của một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) tại chợ Phú Hà, thuộc phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương ngày 02/3/2019 nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Hành vi của bị cáo tàng trữ 01 gói ma túy Methamphetamine, trọng lượng 0,4632 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 226/CT-VKS ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,4632 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất nhà nước cấm; sim số 0978644214 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động hiệu Sony bị cáo sử dụng vaò việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với xe mô tô biển số 64K1-268.14 là của anh Trần Thanh T, anh T cho L mượn, L chở T đi chơi L không biết T cất giữ ma túy, nên đã trả lại cho anh T.

[10] Đối với người tên H bán ma túy cho T tại khu vực chợ Phú Hà, thuộc phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Thành T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lâm Thành T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,4632 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 sim số 0978644214.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Sony. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/6/2019, bút lục 106).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lâm Thành T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 264/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:264/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về