Bản án 263/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 263/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 271/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021, theo Quyết H đưa vụ án ra xét xử số 280/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Duy T, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 14/8/1980; Nơi sinh: Đ, Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm LV, xã HT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Lê Duy A (đã chết); con bà: Nguyễn Thị B (sinh năm 1949); Vợ: Bùi Thị C, sinh năm 1979; Có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004; Gia đình có 7 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Vi Xuân H, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 01/01/1982; Nơi sinh: Đ, Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 4, thị trấn SC, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Vi Thế E, sinh năm 1956; con bà: Hoàng Thị F, sinh năm 1961; Vợ: Sầm Thị G, sinh năm 1982, Có 01 con sinh năm 2006; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2021 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Bùi Thị L, sinh năm 1979 – Có mặt.

1 Trú tại: Xóm LV, xã HT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

- Người chứng kiến: Ông Tăng Đình K, sinh năm 1960 – vắng mặt.

Trú tại: Tổ 9, phường TL, TP T, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 9 giờ 30 phút ngày 20/2/2021, tổ công tác của Công an phường TL, thành phố Thái Nguyên phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 8, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên thì phát hiện 02 nam thanh niên điều khiển xe mô tô BKS: 20B2-125.23 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên ngồi sau khai tên là Vi Xuân H và tự giác lấy từ túi áo khoác bên trái H đang mặc giao nộp 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng. Nam thanh niên điều khiển xe mô tô khai tên là Lê Duy T. Kiểm tra người T, tổ công tác không phát hiện thu giữ gì (T và H khai chất bột màu trắng là ma túy Heroine). Ngoài ra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Forme màu nâu; thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS: 20B2-125.23 Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy H.

Tiến hành cân xác H khối lượng chất bột màu trắng có khối lượng là:

0,171 gam (gửi giám H ký hiệu Đ1).

Tại kết luận giám H số 488/KL-KTHS ngày 26/2/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì ký hiệu Đ1 gửi giám H là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,171 gam.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Lê Duy T và Vi Xuân H khai nhận: Khoảng 9 giờ ngày 20/2/2021, khi H đang ở nhà thì T gọi điện và rủ H đi mua ma túy Heroine để cùng nhau sử dụng. H đồng ý, sau đó T điều khiển xe mô tô BKS: 20B2-125.23 đến đón. Khi đi đến đầu cầu Gia Bảy thuộc phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên, T đưa cho H 100.000 đồng để H đi mua ma túy. H cầm số tiền trên mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 100.000 đồng. Mua xong, H cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác bên trái H đang mặc rồi T điều khiển xe mô tô chở H đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến tổ 8, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên thì bị bắt quả tang như trên.

Vật chứng vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 bên trong chứa chất ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, màu nâu đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc bọc vỏ ốp điện thoại màu đen đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS: 20B2-125.23. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Bùi Thị L khai: Chị là vợ của bị cáo T. Chiếc xe mô tô Honda nhãn hiệu Lead là tài sản của riêng chị. Ngày 20/02/2021, T lấy xe của chị đi mua ma túy, chị hoàn toàn không biết. Nay chị đề nghị cho xin lại chiếc xe để phục vụ sinh hoạt hàng ngày.

Tại bản cáo trạng số 291/CT-VKSTPTN ngày 25/5/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Lê Duy T và Vi Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Duy T và Vi Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt:

+ Bị cáo Lê Duy T từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Bị cáo Vi Xuân H từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 bên trong chứa chất ma túy.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, màu nâu đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc bọc vỏ ốp điện thoại màu đen đã qua sử dụng.

+ Trả cho chị Bùi Thị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS: 20B2- 125.23.

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy H về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, các bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận H như sau:

[1]. Hồi 9 giờ 30 phút ngày 20/2/2021, tại tổ 8, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên, tổ công tác của Công an phường TL, thành phố Thái Nguyên bắt quả tang Lê Duy T và Vi Xuân H đang có hành vi tàng trữ 0,171 gam Heroine để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với các bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền sự nhưng là đối tượng nghiện chất ma túy.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung, tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, các bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[3]. Vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong kí hiệu Đ1 (bên trong có chứa Heroine còn lại sau giám định) không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, màu nâu đã qua sử dụng thu giữ của Vi Xuân H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc bọc vỏ ốp điện thoại màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Lê Duy T các bị cáo khai dùng điện thoại để liên lạc rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng, xét thấy đây là các tài sản các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với chiếc 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS: 20B2-125.23, bị cáo Lê Duy T sử dụng để đi chở H đi mua ma túy về sử dụng, tuy nhiên chiếc xe này của chị Bùi Thị L (vợ bị cáo), khi bị cáo lấy xe đi mua ma túy, chị L không biết và cũng không liên quan gì. Tại phiên tòa chị L đề nghị được xin lại chiếc xe để sử dụng. Xét để nghị của chị L là có căn cứ nên trả lại chị L chiếc xe để chị L quản lý, sử dụng là phù hợp.

[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy H tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với các bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo các bị cáo khai mua mua ma túy của 01 người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Các bị cáo: Lê Duy T và Vi Xuân H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

+ Lê Duy T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Vi Xuân H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam mỗi bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu Đ1.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME, màu nâu đã qua sử dụng thu giữ của Vi Xuân H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen bạc bọc vỏ ốp điện thoại màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Lê Duy T.

Trả cho chị Bùi Thị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS: 20B2- 125.23.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/5/2021 giữa cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy H về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Lê Duy T và Vi Xuân H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 263/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:263/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về