Bản án 263/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 263/2020/HSST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2020; tại: Trụ sở UBND xã Nghi Kim, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 247/2020/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 386/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Bạch Vương A; Sinh ngày: 07 tháng 4 năm 1984 tại huyện H, tỉnh NA; Nơi cư trú: Khối 13, Thị trấn H, huyện HN, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Bạch Đ, Sinh năm: 1947 và bà: Lưu Thị Vương L, Sinh năm: 1950; Chưa có vợ, con; Tiền sự: không; Tiền án:

- Bản án số 257/2008/HSST ngày 24/6/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 16/11/2009;

- Bản án số 530/2011/HSST ngày 21/12/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 14/12/2014;

- Bản án số 478/2015/HSST ngày 24/11/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 4 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 24/3/2019.

Nhân thân: Ngày 27/02/2008, bị Công an huyện Hưng Nguyên xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/02/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Trịnh Thị H; Sinh năm: 1984; Địa chỉ: Khối 15, phường C, thành phố V, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Anh Nguyễn Trọng C; Sinh năm: 1998; Địa chỉ: Khối 11, phường T, thành phố V, tỉnh NA. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 30 phút ngày 11/02/2020, tại khu vực trước nhà số 9, Đường Đ thuộc phường H, thành phố V, tỉnh NA; tổ công tác Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang Phan Bạch Vương A đang có hành vi cất giữ trái phép 03 gói ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 5,850 gam ma túy mục đích để sử dụng.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 12/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh và Kết luận giám định số 250/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 16/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

“- Mẫu chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Phan Bạch Vương A gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phan Bạch Vương A có tổng khối lượng là 5,66 gam.

- Mẫu viên nén hình tròn màu đỏ (ký hiệu M3) thu giữ của Phan Bạch Vương A gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Viên nén hình tròn màu đỏ và mảnh vỡ viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Phan Bạch Vương A có tổng khối lượng là 0,190gam”.

Tại Bản cáo trạng số 279/CT-VKS-TPV ngày 26/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Phan Bạch Vương A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm g, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Bạch Vương A khai nhận như sau: Vào ngày 11/02/2020, Phan Bạch Vương A đang ở nhà thì có một người bạn tên H, không rõ lai lịch, địa chỉ gọi điện thoại để nói chuyện. Qua điện thoại, H nói mới đi Lào về có ít ma túy và hỏi Vương A có muốn lấy để sử dụng không. Vương A đồng ý, H hẹn đến khu vực hồ cá C, thuộc phường C, thành phố V để gặp nhau lấy ma túy. Khi gặp nhau, H đưa ma túy cho Vương A. Vương A cầm 03 gói ma túy trên cất giấu vào trong người rồi đi về nhà. Đến khoảng 21 giờ 10 phút ngày 11/02/2020, Vương A đi xe mô tô biển kiểm soát 37Z2-5909 xuống thành phố Vinh. Khi đi đến trước số nhà 19, đường Đ, thuộc phường H, thành phố V, thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong người 01 gói polyetylen màu trắng bên trong chứa 01 viên nén hình tròn màu đỏ và 2 mảnh vỡ ra từ viên nén hình tròn màu đỏ; 02 gói polyetylen màu trắng, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy (Methamphetamine) có khối lượng đúng như Kết luận giám định đã nêu. Ngoài ra, còn thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 37Z2-5909 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như tại Bản cáo trạng số 279/CT- VKS-TPV ngày 26/5/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm g, o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Phan Bạch Vương A từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.

Ngoài ra, còn đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và xử lý vật chứng là: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015, Điều 47 BLHS 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy (Methamphetamine) còn lại sau khi giám định là 5,05 gam.

Và tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Căn cứ vào: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Trịnh Thị H (BL 82, 83), người làm chứng anh Nguyễn Trọng C (BL 77 – 81); Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi cất giữ trái phép ma túy để sử dụng của Phan Bạch Vương A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 BLHS 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm với tổng khối lượng ma túy được xác định trong hành vi phạm tội lần này là 5,850 gam (Methamphetamine) nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm g, điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng mức.

[2.2]. Đây là vụ án thuộc loại rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tệ nạn sử dụng các loại ma túy tổng hợp đang có chiều hướng gia tăng và là nguyên nhân gây nên sự gia tăng của nhiều loại tội phạm khác như trộm, cướp, cố ý gây thương tích... nên Đảng và nhà nước đang kiên quyết đấu tranh nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi cộng đồng xã hội. Bản thân bị cáo đã từng bị xét xử nhiều lần trong đó cũng có những lần bị xét xử về tội phạm ma túy nên hiểu rõ tác hại của ma túy đối với trí lực và thể lực của người sử dụng; biết rõ ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm bị nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển... trái phép. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức pháp luật kém, thiếu ý chí tu dưỡng, rèn luyện để sửa chữa sai lầm. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn; trong gia đình bị cáo có bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, kỉ niệm chương Chiến sỹ Trường Sơn và mẹ được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục nên cần áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ phần nào hình phạt đối với bị cáo.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đ đến 500.000.000 đồng nhưng xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định; lại là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên miễn cho bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của Vương A thì có người đàn ông tên H đã cho ma túy nhưng do Vương A không biết tên tuổi, lai lịch, địa chỉ cụ thể. Vì vậy, khi nào xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.

[2.5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ tại Phan Bạch Vương A, sau khi lấy đi giám định còn lại là 5,05 gam (Methamphetamine) là đối tượng phạm tội cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Đối với 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu xám đen, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Trịnh Thị H, cho Vương A mượn để sử dụng, việc Vương A sử dụng chiếc điện thoại trên để thực hiện hành vi phạm tội chị H không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho chị H là phù hợp nên Hội đồng xét xử miễn xét. Riêng đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter, màu đen, biển kiểm soát 37Z2-5909. Quá trình điều tra, Phan Bạch Vương A khai nhận mua chiếc xe trên của một người đàn ông tên L (Vương A không biết lai lịch, địa chỉ) nhưng không có giấy tờ sở hữu hợp pháp. Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên và xử lý sau nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Phan Bạch Vương A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

*. Áp dụng: Điểm g, o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt Bị cáo Phan Bạch Vương A: 5 (Năm) năm 6 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 11/02/2020.

*. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong, trong có 5,05 gam ma túy (Methamphetamine) thu giữ tại Phan Bạch Vương A (một mặt của phong bì có ghi “Vật chứng thu giữ của Phan Bạch Vương A”).

(Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK0342 ngày 18/6/2020).

*. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phan Bạch Vương A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 263/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:263/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về