Bản án 263/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 263/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 300/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Doãn Đ; Sinh năm: 1984; tại Hà Tĩnh; Thường trú: phường Sông Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Doãn B; và bà: Lê Thị H; có vợ chưa có con; tiền sự: không; tiền án:

- Ngày 13/9/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 08 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 50/2007/HSST

- Ngày 23/11/2007, bị Tòa án nhân dân Thành phố Huế xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 165/2007/HSST.

Tổng hợp 02 bản án là 09 năm tù, chấp hành xong hình phạt ngày 30/8/2010.

- Ngày 22/12/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo bản án số 534/2011/HS-ST. Ngày 26/01/2013 chấp hành xong hình phạt;

- Ngày 27/01/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 42 tháng tù về tội “cố ý làm hư hỏng tài sản và Gây rối trật tự công cộng”, theo bản án số 09/2015/HS-ST, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2017;

Bị bắt, tạm giam từ ngày: 30/01/2019. (Có mặt).

Người làm chứng: Anh Đoàn Thanh L, sinh năm 1994. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Lê Doãn Đ là người nghiện ma túy tổng hợp và bắt đầu sử dụng ma túy vào năm 2017 cho đến ngày bị bắt. Lúc 20 giờ 30 phút ngày 30/01/2019 Công an phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức và Công an quận Bình Thạnh kết hợp kiểm tra nhà số 45/6/8 đường số 9, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức phát hiện bắt quả tang Lê Doãn Đ có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tang vật thu giữ gồm 01 gói nylon bên trong có 47 viên nén hình tròn màu đỏ được thu giữ ở túi của Đ đang đeo trên người, số ma túy này Đ khai mua của tên T (không rõ lai lịch) vào ngày 23/01/2019 với giá 4.000.000 đồng để về sử dụng. Ngày 30/01/2019 Đ đi bộ đến nhà người tên L số 45/6/8 đường số 9, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức để mua ma túy về sử dụng thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Kết luận giám định số 534/KLGD-H ngày 14/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Doãn Đ và hình dấu Công an phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức gửi giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9965g, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

+ 01 gói niêm phong ghi số vụ 534/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen;

+ 01 túi da màu nâu;

+ số tiền 1.000.000 đồng.

[2] Bản Cáo trạng số 258/CT-VKSTĐ ngày 05/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Lê Doãn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Doãn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lê Doãn Đ không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Doãn Đ phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9965g loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Lê Doãn Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước.

Xét về nhân thân bị cáo Đ, từ năm 2006 đến năm 2015 bị cáo liên tục phạm tội cụ thể:

- Ngày 23/11/2007, bị Tòa án nhân dân Thành phố Huế xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 165/2007/HSST.

- Ngày 13/9/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 08 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 50/2007/HSST. Tổng hợp 02 bản án là 09 năm tù, chấp hành xong hình phạt ngày 30/8/2010;

- Ngày 22/12/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo bản án số 534/2011/HS-ST. Ngày 26/01/2013 chấp hành xong hình phạt;

- Ngày 27/01/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 42 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản và Gây rối trật tự công cộng”, theo bản án số 09/2015/HS-ST, chấp hành xong hình phạt ngày 31/8/2017

Như vậy bị cáo phạm tội trong vụ án này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự

Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt nghiêm phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với cách mạng đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi số vụ 534/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 1.000.000 đồng bị cáo dùng điện thoại để gọi điện cho L mua ma túy và khai dự định mua 1.000.000 đồng ma túy ở chỗ L, mặc dù chưa thực hiện được do L bị bắt nhưng thể hiện ý chí của bị cáo sử dụng tài sản vào việc phạm tội do đó tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

- 01 túi da màu nâu dùng để cất giấu ma túy không có giá trị sử dụng do đó tịch thu tiêu hủy.

Đối với người tên T bán ma túy cho Đ, do không rõ lai lịch nên cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với người tên L. Ngày 30/01/2019, đã bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Bình Thạnh bắt và khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Doãn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Doãn Đ 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số vụ 534/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định và 01 túi da màu nâu.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 1.000.000 đồng.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/244 ngày 09/9/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức và giấy nộp tiền vào tài khoản của Kho bạc nhà nước không ghi ngày tháng năm 2019).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Lê Doãn Đ chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 263/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:263/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về