Bản án 262/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 262/2019/HS-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 276/2019/HSST ngày 21/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2895/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh Q, sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: C1/11 B.T.K, Khu phố 3, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới T: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh V và bà Nguyễn Thị Kim L; có vợ Trang Thị Quỳnh T và 02 con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam ngày 09/12/2018. (có mặt).

Bị hại: Ông Đoàn Ngọc T, sinh năm: 1984; trú tại: ấp Tân Phước, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Đỗ Hải Bình thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Minh Q. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 08/12/2018, Nguyễn Minh Q đi bộ từ nhà số C1/11 Bùi Thanh Khiết, Khu phố 3, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh đến trước nhà số C1/4 Bùi Thanh Khiết, Khu phố 3, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh thì nhìn thấy 01 xe ô tô hiệu Toyota Innova màu trắng, biển số 51G-491.39 đang đậu ngoài đường, đối diện nhà C1/4, không người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm xe. Q đến mở cửa xe phía trước bên trái thấy cửa xe không khóa, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa nên liền lên xe, nổ máy rồi điều khiển xe chạy thẳng đường Bùi Thanh Khiết hướng về đường dẫn cao tốc Trung Lương. Q chạy được một đoạn thì quay đầu xe lại, chạy về hướng Bùi Thanh Khiết - Nguyễn Hữu Trí, khi chạy qua khỏi nhà Q ở số C1/11 Bùi Thanh Khiết một đoạn, Q cho xe lùi lại và dừng trước nhà một chút rồi tiếp tục điều khiển xe chạy thẳng đường Bùi Thanh Khiết, rẽ phải vào Nguyễn Hữu Trí rồi chạy về hướng Quốc lộ 1A. Lúc này, Đoàn Ngọc T, là chủ xe ô tô đi từ trong nhà C4/11 ra phát hiện Q đang điều khiển xe của mình nên tri hô cướp và được Trần Hữu Có điều khiển xe máy một mình và Ngô Tăng Quang điều khiển xe máy chở T đuổi theo. Q nhìn qua gương chiếu hậu biết có người truy đuổi nhưng vẫn tiếp tục điều khiển xe chạy đi, chạy đến trước nhà số E9/16A Nguyễn Hữu Trí, Khu phố 5, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, nhóm của T chặn được đầu xe ô tô và bắt giữ được Q, giao cho Công an thị trấn Tân Túc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Minh Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐGTS ngày 04/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp thành phố kết luận: Xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 (đã qua sử dụng) trị giá tại thời điểm xảy ra vụ án là 680.833.000 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe ô tô hiệu Toyota Innova màu trắng, biển số 51G-491.39, Cơ quan điều tra đã trả cho bị hại Đoàn Văn T, ông T không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 192/CT-VKS-P2 ngày 13/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Minh Q đã thừa nhận hành vi phạm tội, cụ thể như sau: Khoảng 17 giờ ngày 08/12/2018, lợi dụng việc ông Đoàn Ngọc T đậu xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 đối diện nhà số C1/4 Bùi Thanh Khiết, Khu phố 3, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, không có người trông coi, cửa xe không khóa, chìa khóa xe vẫn cắm trên ổ khóa nên bị cáo đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe trên và bị đuổi theo bắt quả tang.

Bị hại Đoàn Ngọc T đã nhận được tài sản là xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tối đa cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình, chăm nuôi con nhỏ.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo, người bị hại, cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Minh Q về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Minh Q từ 05 năm đến 07 năm tù. Về trách nhiệm dân sự thì đề nghị ghi nhận bị cáo không phải bồi thường cho bị hại.

Luật sư Đỗ Hải Bình trình bày bài bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh Q nêu quan điểm: thống nhất với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại phạm tội thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại; tại phiên tòa bijhaij cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức mà Viện kiểm sát đề nghị.

Bị cáo đồng ý với bài bào chữa của luật sư, không tranh luận gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát bảo lưu quan điểm, không tranh luận, về các tình tiết giảm nhẹ mà luật sư nêu thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

Các bên còn đưa ra một số quan điểm đối đáp nhưng cuối cùng đều bảo lưu quan điểm như đã trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh Q, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Luật sư bào chữa cho bị cáo cũng không có khiếu nại, kiến nghị gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Minh Q đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, bản kết luận định giá tài sản… nên đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 17 giờ, ngày 08/12/2018, lợi dụng việc ông Đoàn Ngọc T đậu xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 đối diện nhà số C1/4 Bùi Thanh Khiết, KP3, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, không người trông coi, cửa xe không khóa, chìa khóa xe vẫn cắm trên ổ khóa, bị cáo Nguyễn Minh Q đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe trên và tẩu thoát thì bị phát hiện, truy đuổi bắt quả tang cùng vật chứng. Kết quả định giá kết luận: xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 (đã qua sử dụng) trị giá tại thời điểm xảy ra vụ án là 680.833.000 đồng (Theo bản kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐGTS ngày 04/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp thành phố).

Với các hành vi nêu trên, xét đã có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với trị giá hơn 500.000.000 đồng nên đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đắc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như vị luật sư bào chữa cho bị cáo và đại diện Viện kiểm sát đã nêu như: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho phía bị hại phạm tội thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại được bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn đang phải nuôi 02 con nhỏ theo các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đồng thời áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm, sớm cải tạo tốt, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại nê không phạt bổ sung với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đoàn Ngọc T đã nhận lại xe ô tô hiệu Toyota Innova biển số 51G-491.39 và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản nào khác nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí: căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Minh Q 07 (bảy) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù T từ ngày 09/12/2018.

Ghi nhận bị cáo không phải bồi thường cho bị hại Đoàn Ngọc T.

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 262/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:262/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về