Bản án 262/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH TH

BẢN ÁN 262/2019/HSST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 271/2019/HSST ngày 16 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 277/2019/QĐXXST-HS ngày 30/5/2019 đối với bị cáo:

Trần Đình Q - tên gọi khác: Không, sinh năm 1972 tại H; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm Đ, thôn V, xã C, huyện B, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Trần Đình T, sinh năm 1942 và con bà Trần Thị G, sinh năm 1946; Bị cáo có vợ Nguyễn Thu G1, sinh năm 1973 (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 25/02/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1960 – Địa chỉ: Tổ X, phường QT, thành phố TH. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hôi 10 giờ 30 phút ngày 25/02/2019, tổ công tác cua Công an phường QT, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực tô 18 của phường thì phát hiện 01 người đàn ông đi bộ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Người đàn ông tự khai tên là Trần Đình Q. Quá trình kiểm tra, phát hiện lòng bàn tay phải của Q có cầm 01 gói nilon màu hồng bên trong có 03 gói giấy màu trắng đều chứa chất bột màu trắng (Q khai là Heroine). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, cân số chất bột màu trắng thu giữ được của Trần Đình Q có khối lượng 0,809 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu Q1.

Kết luận giám định số 474/KL-PC09 ngày 05/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bôt màu trắng trong mẫu Q1gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,809 gam.

Tại cơ quan điều tra,Trần Đình Q khai nhận: Khoảng 06 giơ ngay 25/02/2019, Q đi xe khách từ nhà lên thành phố TH mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 10 giờ Q đến khu vực đường Lương Thế Vinh thuộc phường QT, thành phố TH, Q gặp và mua ma túy của một người đàn ông không quen biết 01 túi nilon màu hồng bên trong có 03 gói giấy màu trắng đều chứa Heroine với giá 1.350.000đ. Q cầm ở lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi Q đi đến khu vực tổ 18, phường QT thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 278/CT-VKSTPTN ngày 14/5/2019,Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Trần Đình Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, Trần Đình Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Đình Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Đình Q từ 30 đến 36 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Q.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu Q1bên trong chứa ma túy

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 25/02/2019, tại tô 18, phường QT, thành phố TH, Trần Đình Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,809 gam Heroine mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Công an phường QT, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải xét xử bị cáo với mức án phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bố của bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS.

Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu Q1 (bên trong chứa chất ma túy).

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Q phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Trần Đình Q khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình Q phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Trần Đình Q 30(Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/02/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

2.1.Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu Q1bên trong chứa chất ma túy.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 295 ngày 13/5/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Đình Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 262/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:262/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về