Bản án 26/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn D, sinh năm 1992; nơi sinh: Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Thôn Mộc Hoàn Giáo, xã V, huyện H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị L; có vợ tên Nguyễn Thị Kim T và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/9/2020 sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Hoàng Xuân L, sinh năm 1995; nơi sinh: Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Thôn Hòa Thượng, xã B, huyện P, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Xuân H và bà Nguyễn Thị H1; có vợ tên Hoàng Thị Thanh Tâm (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/9/2020 sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Đá Bắn, xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; vắng mặt

Người làm chứng: Ông Ngô Tấn Th; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L và Ngô Tấn Th có mối quan hệ bạn bè với nhau. Cả ba đều là đối tượng nghiện ma túy. Nguyễn Văn D và Ngô Tấn Th cùng ở chung phòng trọ tại khu phố 6, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Hoàng Xuân L làm việc và ở tại cơ sở Massage Quang Hưng thuộc phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khong 17 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, tại đoạn đường ĐT 747B thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Công an phường Tân Hiệp tuần tra phát hiện khả nghi nên kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L và Ngô Tấn Th, lúc này Nguyễn Văn D lấy từ trong túi quần đang mặc 01 vỏ hộp thuốc hiệu Jet bên trong có 01 bịch nylon chứa chất tinh thể màu trắng. L, D cùng khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy do D, L góp tiền mua chung để sử dụng và L, D cùng Th đang trên đường đến nhà nghỉ để sử dụng ma túy.

Công an phường Tân Hiệp lập biên bản niêm phong chất tinh thể màu trắng thu giữ của D và L, đồng thời thu giữ tài liệu, đồ vật liên quan gồm: 01 đồng hồ hiệu Hubut; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng; 01 thẻ căn cước công dân tên Hoàng Xuân L; 01 điện thoại iphone 6s Plus; xe mô tô biển số 59K2 – 141.09 và giấy chứng nhận đăng ký; 01 thẻ căn cước công dân tên Nguyễn Văn D.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 22 giờ ngày 02/9/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên D nhắn tin qua Zalo cho L rủ L góp tiền mỗi người 300.000 đồng mua ma túy sử dụng thì L đồng ý. Sau đó L tiếp tục nhắn tin qua Zalo cho đối tượng tên Thành nhờ mua giúp 1.000.000 đồng ma túy. Khoảng 30 phút sau thì có một người nam đến cơ sở Massage nơi L làm việc giao cho L 01 bịch nylon chứa ma túy và L đưa cho người này số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, L cất giấu trong phòng của mình tại cơ sở massage và điện thoại báo cho D biết. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, D rủ Th cùng đi chơi với D thì Th đồng ý. D điều khiển xe mô tô biển số 59K2-141.09 chở Th đi từ phòng trọ đến cơ sở massage gặp L, khi gặp nhau L kêu D và Th vào phòng ở của L chơi thì D và Th đồng ý. Khi vào bên trong phòng thì Th ngồi chơi điện thoại còn D và L nói chuyện với nhau, lúc này L đưa bịch ma túy mua được cho D xem và nói mua với số tiền 1.000.000 đồng, L góp 600.000 đồng còn D góp 400.000 đồng thì D đồng ý và trả 400.000 đồng cho L. Khi L và D trao đổi và chuyển tiền cho nhau thì Th đang ngồi chơi điện thoại nên không biết, L và D cũng không nói cho Th biết. Sau khi nhận tiền, L lấy 01 ít ma túy từ bịch ma túy mua được bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng phần còn lại L đem cất giấu trong người, L và D rủ Th cùng sử dụng ma túy thì Th đồng ý và cùng sử dụng ma túy. Qúa trình D, L và Th sử dụng ma túy thì bộ dụng cụ sử dụng ma túy bị vỡ nên ngưng không sử dụng nữa, D và Th đi về. Trước khi về, L nói với D số ma túy còn lại hôm sau sử dụng tiếp thì D đồng ý. Việc bàn bạc ngày hôm sau tiếp tục sử dụng ma túy thì L chỉ nói với D, D và L không nói cho Th biết.

Đến khoảng 11 giờ ngày 03/9/2020, L nhắn tin Zalo cho D nói D kiếm bộ dụng cụ để sử dụng ma túy thì D đồng ý. Sau khi nói chuyện với L xong, D hỏi Th có nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy) không thì Th nói có nên D chở Th đi lấy nỏ thủy tinh đem về phòng trọ của mình. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, D rủ Th đi đến gặp L chơi thì Th đồng ý, khi đi D kêu Th cầm theo nỏ thủy tinh nhưng không nói cầm theo để làm gì. D điều khiển xe 59K2 – 141.09 chở Th đến cơ sở massage gặp L, khi gặp nhau L nói với D đi tìm nhà nghỉ sử dụng ma túy thì D đồng ý, việc bàn bạc giữa L và D thì D và L không nói cho Th biết. Sau khi bàn bạc xong, D giao xe 59K2 – 141.09 cho L, L điều khiển xe chở D và Th đi tìm nhà nghỉ để sử dụng ma túy. Khi đi đến đoạn đường ĐT747B thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phường Tân Hiệp đang đi tuần tra yêu cầu dừng xe để kiểm tra, thấy vậy L liền điều khiển xe bỏ chạy được khoảng 50 mét thì dừng xe lại, khi dừng xe L lấy 01 vỏ hộp thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 01 bịch nylon chứa ma túy đưa cho D cất giấu, D nhận lấy và cất vào túi quần bên trái đang mặc.

Tại Bản kết luận giám định số 561/MT–PC09 ngày 11/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể thu giữ của Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0704 gam loại Methamphetamine.

Xe mô tô biển số 59K2-141.09 có số khung RLCUE3220HY027828, số máy E3X9E106628 đứng tên đăng ký chủ sở hữu là ông Nguyễn Hữu Long. Ngày 31/8/2020, ông Long đã ký hợp đồng bán xe này cho Nguyễn Văn D. Qua tra cứu xe trên không có trong dữ liệu xe máy vật chứng.

Cáo trạng số 30/CT-VKSTU ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và xử phạt bị cáo Hoàng Xuân L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Lượng ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy; đối với điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng thu giữ của bị cáo L, bị cáo L đã sử dụng điện thoại này để liên lạc với người khác mua ma túy, là tài sản của bị cáo, là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với các tài sản, đồ vật khác tạm giữ của các bị cáo không liên quan hành vi phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo tiếp tục sử dụng.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, các bị cáo không có ý kiến gì tại phần tranh luận; lời nói sau cùng, các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa các bị cáo xác định do nghiện ma túy nên thường rủ nhau sử dụng ma túy chung, lượng ma túy bị thu giữ có nguồn gốc do các bị cáo cùng góp tiền mua nhằm mục đích sử dụng trong đó bị cáo L góp số tiền 600.000 đồng, bị cáo D góp số tiền 400.000 đồng. Xét thấy lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03/9/2020, tại đoạn đường ĐT 747B thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L có hành vi cất giấu trong người 1,0704 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Thời điểm thực hiện hành vi, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tự ý cất giữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án tiền sự, có công việc ổn định, tuy nhiên đều là đối tượng nghiện ma túy.

[5] Về tính chất đồng phạm, cụ thể hóa tội phạm: Các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, tuy là đồng phạm nhưng tính chất giản đơn, các bị cáo cùng có vai trò là người thực hành tích cực, tuy nhiên bị cáo L góp số tiền nhiều hơn để mua ma túy, sử dụng nơi ở của mình cất giấu ma túy đồng thời bị cáo là người mua ma túy nên mức độ thực hiện tội phạm là cao hơn bị cáo D do đó chịu trách nhiệm hình sự cao hơn. Trong vụ án này, trước khi vụ việc bị phát hiện ông Ngô Tấn Th có sử dụng chung ma túy với các bị cáo và tại thời điểm bắt quả tang ông Th cũng có mặt tại hiện trường, tuy nhiên quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ xác định được vai trò đồng phạm của ông Th, lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều xác định ma túy bị thu giữ là do các bị cáo hùn tiền mua, ông Th không liên quan, việc Cơ quan Cảnh sát điều tra không khởi tố bị can đối với ông Th là phù hợp.

[6] Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Cần tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung xã hội.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Vỏ bao thuốc hiệu Zet không có giá trị sử dụng, lượng ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, cần tịch thu tiêu hủy; đối với điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng thu giữ của bị cáo L, bị cáo L đã sử dụng điện thoại này để liên lạc với người khác mua ma túy, là tài sản của bị cáo, là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với các tài sản, đồ vật khác tạm giữ của các bị cáo không liên quan hành vi phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo tiếp tục sử dụng. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D và Hoàng Xuân L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 01 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/9/2020.

1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Xuân L 01 (Một) năm 8 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Vỏ bao thuốc hiệu Zet và 0,9735g ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong bì thư niêm phong ký hiệu 561/P09.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Xuân L: 01 đồng hồ hiệu Hubut; 01 thẻ căn cước công dân tên Hoàng Xuân L.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D: 01 điện thoại iphone 6s Plus, màu trắng hồng Model A1687FCCID BCG E2944A IC579CE2944A, xe mô tô Yamaha Sirius biển số 59K2-141.09 màu đỏ đen, số máy E3X9E106628, số khung 3220HY027828 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 59K2 – 141.09; 01 thẻ căn cước công dân tên Nguyễn Văn D; 01 hợp đồng mua bán xe ngày 31/8/2020.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên) 3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc mỗi bị cáo Nguyễn Văn D, Hoàng Xuân L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về