Bản án 26/2021/HS-PT ngày 23/06/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 26/2021/HS-PT NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 42/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Trung K, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2021/HS-ST ngày 09/04/2021 của Toà án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Trung K, sinh ngày 23/11/2001 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc A và bà Đặng Kim C; vợ con: Chưa có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử kỷ luật; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2020 đến ngày 26/10/2020 cho bảo lĩnh; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đặng Kim C, sinh năm 1972. Trú tại: Thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 22/8/2020, Tạ Văn K đến quán phô tô C hỏi Phạm Trung K có thể sửa ngày, tháng trong phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS- Cov-2 không, Phạm Trung K trả lời có thể sửa được. Sau đó, Tạ Văn K đưa cho Phạm Trung K 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm của Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn ghi ngày thực hiện xét nghiệm là ngày 13/8/2020, ngày trả kết quả xét nghiệm là 14/8/2020 và yêu cầu Phạm Trung K sửa ngày 13/8/2020 thành ngày 21/8/2020, ngày 14/8/2020 thành ngày 22/8/2020. Phạm Trung K đã dùng phiếu xét nghiệm của Tạ Văn K đưa vào máy scan rồi thao tác chỉnh sửa trên máy tính, thực hiện sửa ngày xét nghiệm như yêu cầu, ngoài ra không chỉnh sửa thêm thông tin nào khác, sau đó in đen trắng phiếu xét nghiệm vừa chỉnh sửa thành 04 đến 05 bản và đưa cho Tạ Văn K. Tạ Văn K trả cho Phạm Trung K số tiền công là 20.000 đồng. Ngày hôm sau, Tạ Văn K sử dụng phiếu trả lời kết quả xét nghiệm mà Phạm Trung K sửa để xuất cảnh sang Trung Quốc, sau khi xong việc Tạ Văn K đã vứt phiếu xét nghiệm trên.

Đến 19 giờ ngày 25/8/2020, Tạ Văn K cùng Lê Xuân C, Trần Quang D đến quán phô tô C gặp chủ quán phô tô là bà Đặng Kim C (là mẹ Phạm Trung K) và nói muốn làm giấy tờ. Do không biết đánh máy tính nên bà Đặng Kim C gọi điện cho con trai Phạm Trung K đến quán. Khi đến quán phô tô, Phạm Trung K gặp Tạ Văn K và Lê Xuân C ở quán còn Trần Quang D đã đi mua đồ ăn. Tạ Văn K đưa cho Phạm Trung K 03 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS- CoV-2 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn cấp mang tên Trần Quang D, Lê Xuân C và Phan Văn K và bảo Phạm Trung K thực hiện sửa ngày kết quả xét nghiệm trên các phiếu trên thành ngày 25/8/2020, ngày trả kết quả xét nghiệm thành ngày 26/8/2020. Khi Tạ Văn K và Lê Xuân C đứng ở ngoài chờ, Phạm Trung K đưa các phiếu xét nghiệm vào máy scan, thao tác chỉnh sửa ngày trên phiếu xét nghiệm theo yêu cầu sau đó in mỗi phiếu xét nghiệm đã chỉnh sửa thành 01 bản in màu và phô tô thêm thành 03 đến 04 bản đen trắng rồi đưa toàn bộ phiếu xét nghiệm bản gốc và bản chỉnh sửa cho Tạ Văn K. Lê Xuân C trả tiền cho Phạm Trung K 70.000 đồng.

Ngày 26/8/2020, Lê Xuân C sử dụng phiếu trả lời kết quả xét nghiệm giả để xuất cảnh sang Trung Quốc thì bị lực lượng chức năng Trung Quốc phát hiện, thu giữ. Tại Cơ quan Công an, Lê Xuân C đã khai nhận toàn bộ quá trình đi làm phiếu trả lời kết quả xét nghiệm giả của mình cùng Tạ Văn K, Trần Quang D. Công an huyện Văn Lãng đã mời Trần Quang D, Tạ Văn K và Phan Văn K lên làm việc. Qúa trình làm việc, Trần Quang D đã giao nộp 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm giả đã làm tại quán phô tô C ngày 25/8/2020. Các phiếu giả còn lại của Trần Quang D, Lê Xuân C và Phan Văn K đã vứt đi, hiện không còn lưu giữ bản nào.

Tại Kết luận giám định số 337/KLGĐ-PC09 ngày 21/9/2020 và Kết luận giám định số 340/KLGĐ-PC09 ngày 23/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận 03 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm gồm: 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm mang tên Lê Xuân C, mã bệnh nhân: 87, địa chỉ: Quảng Trị, ghi ngày 26/8/2020, ký hiệu A1 và 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm mang tên Bùi Văn T, mã bệnh nhân: 10643, địa chỉ: Bắc Giang, ghi ngày 27/8/2020, ký hiệu A2; 01 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm mang tên Trần Quang D, mã bệnh nhân: 16; địa chỉ: Hà Tĩnh ghi ngày 26/8/2020, ký hiệu A, xác định hình dấu trên các tài liệu cần giám định A1, A2, A không phải do con dấu có hình dấu mẫu trên tài liệu ký hiệu M đóng ra và hình dấu tròn đỏ có nội dung "Bệnh viện đa khoa - Sở y tế tỉnh Lạng Sơn" trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A là hình dấu sao chụp.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên bố bị cáo Phạm Trung K phạm tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Trung K 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2020 đến ngày 26/10/2020.

Ngoài ra Bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định, bị cáo Phạm Trung K có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Trung K giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Đơn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với tội danh Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới là 01 đơn trình bày của bà Đặng Kim C, 01 bản sao giấy khai sinh; hồ sơ khám bệnh tại bệnh viện Bạch Mai thể hiện bị cáo bị trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần; 01 bản sao Kỷ niệm chương cựu chiến binh Việt Nam của ông Phạm Ngọc Q là ông nội bị cáo; 02 giấy khen của trường Trung học phổ thông Đ. Tuy nhiên đây không phải là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án tranh luận: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm án và được hưởng án treo cải tạo tại địa phương để có điều kiện chữa bệnh và đi học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Trung K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung Bản án sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Trung K về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Trung K xin được hưởng án treo Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; đã áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người tích cực trong công tác từ thiện vì đã mua 10 chiếc xe lăn cho người già, trẻ em khuyết tật và được Hội chữ thập đỏ thị trấn Đ xác nhận; bị cáo đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo mức án đầu khung hình phạt 02 năm tù là phù hợp.

[3] Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình được thêm tài liệu mới là 01 bản sao giấy khai sinh; hồ sơ khám bệnh tại bệnh viện Bạch Mai thể hiện bị cáo bị trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần (bao gồm 01 phiếu khám bệnh, 01 phiếu chỉ định dịch vụ, 01 phiếu trắc nghiệm tâm lý lâm sàng, 02 đơn thuốc); 01 bản sao Kỷ niệm chương cựu chiến binh Việt Nam của ông Phạm Ngọc Q là ông nội bị cáo; 02 giấy khen của trường Trung học phổ thông Đ. Tuy nhiên đây không phải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Bị cáo phạm tội nhiều lần nên không đủ điều kiện để hưởng án treo. Bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết định khung, có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên không đủ điều kiện để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo; cần giữ nguyên nội dung phần hình phạt của Bản án sơ thẩm.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nêu trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Các phần Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Phạm Trung K, giữ nguyên quyết định về phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 09/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Cụ thể:

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; 38; 50 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Trung K 02 (hai) năm tù, về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2020 đến ngày 26/10/2020. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Trung K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

3. Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (23/6/2021)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HS-PT ngày 23/06/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:26/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về