Bản án 26/2021/HS-PT ngày 19/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2021/HS-PT NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 07/2021/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo Lê Đình L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 157/2020/HS-ST ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Bị cáo kháng cáo:

Lê Đình L, sinh ngày 29 tháng 02 năm 1976 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 8/23/267 đường Lê Thánh T, phường Máy Ch, quận Ngô Q, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình Tr (đã chết); con bà: Nguyễn Thị Đ; có vợ là Đậu Thị Hải Th và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 29/4/2020; tạm giữ ngày 30/4/2020; tạm giam ngày 01/5/2020; có mặt.

Những người làm chứng: Anh Nguyễn Ngọc Th, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt); anh Phạm Văn D; vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội Dng vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, tại nhà Lê Đình L ở số 8/23/267 đường Lê Thánh T, phường Máy Ch, quận Ngô Q, Hải Phòng, Công an quận Ngô Quyền bắt quả tang Lê Đình L có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Ngọc Th và Phạm Văn D. Lúc này, Lê Ngọc T đến nhà L để mua ma túy nên cũng bị bắt giữ. Vật chứng thu giữ gồm: Thu của D 01 gói nilon kích thước khoảng 2x2cm chứa tinh thể màu trắng (niêm phong Mẫu số 1); thu trong Ti quần của Th 01 gói giấy bạc, bên trong chứa cục bột màu trắng (niêm phong Mẫu số 2); Thu của L 01 hộp nhựa dài khoảng 12cm, rộng khoảng 5cm trong có 22 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 1x1,5cm bên trong đều chứa các cục bột màu trắng để trong nhà vệ sinh (niêm phong Mẫu số 3); Thu của L 02 gói nilon để trên bàn (01 gói kích thước khoảng 1x1cm, 01 gói kích thước khoảng 2x2cm) bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (niêm phong Mẫu số 4); Thu trong Ti quần L 150.000 đồng; Thu trên mặt bàn chỗ L ngồi 01 tấm kính hình vuông có cạnh dài khoảng 15cm, 01 cân tiểu ly màu nâu, 01 dao lam; 01 hộp nhựa dài khoảng 17cm, rộng khoảng 6cm bên trong chứa nhiều vỏ Ti nilon các loại; Thu trên giường của L 610.000 đồng; Thu trên tay T 300.000 đồng. Lực lượng Công an đưa các đối tượng về trụ sở lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Đình L thu giữ tại tủ trong phòng ngủ nhà L 01 hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính khoảng 7cm trong có 15 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 1x1,5cm bên trong chứa các cục bột màu trắng (niêm phong Mẫu số 5); Thu trong ngăn kéo tủ 01 hộp giấy hình vuông màu đỏ kích thước khoảng 10x10cm trong có 09 gói nilon mỗi gói có kích thước khoảng 2x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong Mẫu số 6).

Tại bản Kết luận giám định số 238/KLGĐ-MT ngày 04/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận:

Tinh thể màu trắng của mẫu số 1, thu của Phạm Văn D là ma túy, có khối lượng 0,05 gam, là loại Methamphetamine.

Chất bột màu trắng của mẫu số 2, thu của Nguyễn Ngọc Th là ma túy, có khối lượng 0,01 gam, là loại Heroine.

Chất bột màu trắng của mẫu số 3, thu của L để tại nhà vệ sinh là ma túy, có khối lượng 1,91gam, là loại Heroine.

Tinh thể màu trắng của mẫu số 4, thu trên bàn của L là ma túy, có khối lượng 0,65 gam, là loại Methamphetamine.

Chất bột màu trắng của mẫu số 5, thu của L là ma túy, có khối lượng 1,30 gam, là loại Heroine.

Tinh thể màu trắng của mẫu số 6, thu của L là ma túy, có khối lượng 1,95 gam, là loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, trong các bản tự khai và biên bản ghi lời khai ngày 29/4/2020 (trước khi khởi tố bị can đối với L) Lê Đình L khai: Do bản thân nghiện ma túy nên sáng ngày 29/4/2020, L đi bộ đến đường tàu Bình Hải, thuộc phường Máy Chai, Ngô Quyền mua của người đàn ông không quen biết 1.000.000 đồng ma túy đá và 2.000.000 đồng Heroine, mục đích để sử dụng. L mang ma túy về nhà dùng tấm kính và dao lam chia nhỏ số Heroine ra thành 38 gói nhỏ đều có kích thước khoảng 1x1,5cm. L lấy 15 gói cho vào hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính khoảng 7cm rồi cất giấu vào trong tủ quần áo, còn 23 gói cho vào một hộp nhựa dài khoảng 12cm, rộng khoảng 5cm để trên mặt bàn trong phòng ngủ, khi bị công an bắt do sợ hãi nên bị cáo mang vào nhà vệ sinh. 09 gói ma túy đá đều có kích thước khoảng 2x2cm cho vào 01 hộp giấy hình vuông cạnh dài khoảng 10cm màu đỏ, rồi cất trong tủ quần áo; còn 03 gói ma túy đá (01 gói kích thước 1x1cm, 02 gói kích thước 2x2cm) L để trên mặt bàn. Bị cáo khai toàn bộ số ma túy bị cáo mua về chia nhỏ để sử dụng dần.

Sau khi khởi tố bị can, từ ngày 01/5/2020 đến trước ngày 29/5/2020 Lê Đình L khai nhận: Trước khi bị bắt L đã bán ma túy được khoảng 10 ngày. Sáng ngày 29/4/2020, L đi bộ đến đường tàu Bình Hải, thuộc phường Máy Chai, Ngô Quyền mua của người đàn ông không quen biết 1.000.000 đồng ma túy đá và 2.000.000 đồng Heroine, mục đích để về bán kiếm lời. L mang ma túy về nhà dùng tấm kính và dao lam chia nhỏ số Heroine ra thành 38 gói nhỏ đều có kích thước khoảng 1x1,5cm. L lấy 15 gói cho vào hộp nhựa màu trắng, hình tròn có đường kính khoảng 7cm rồi cất giấu vào trong tủ quần áo, còn 23 gói cho vào một hộp nhựa dài khoảng 12cm, rộng khoảng 5cm để trên mặt bàn. L dự định bán 100.000 đồng/gói Heroine, nếu bán hết số Heroine trên L kiếm lời được 1.800.000 đồng. Số ma túy đá L chia thành 12 gói nhỏ (trong đó: 11 gói đều có kích thước 2x2cm, 01 gói có kích thước 1x1cm), L lấy 09 gói đều có kích thước khoảng 2x2cm cho vào 01 hộp giấy hình vuông cạnh dài khoảng 10cm màu đỏ, rồi cất trong tủ quần áo, còn 03 gói ma túy đá (01 gói kích thước 1x1cm, 02 gói kích thước 2x2cm) L để trên mặt bàn. L dự định bán 100.000 đồng/gói ma túy đá, nếu bán hết số ma túy đá trên L kiếm lời 200.000 đồng.

Khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, Th, D đến nhà L mua ma túy. Th hỏi mua của L 01 gói Heroine và trả cho L 100.000 đồng. L nhận tiền cất trong Ti quần, rồi lấy 01 gói Heroine từ hộp nhựa trên bàn đưa cho Th. Sau đó Th đi vào nhà vệ sinh một lúc thì ra ngồi nói chuyện với L và D. Lúc này, D bảo L bán cho D 100.000 đồng ma túy đá, L đồng ý nhận tiền và bán cho D 01 gói ma túy đá, D cầm gói ma túy đá trên tay. Khi thấy lực lượng công an vào bắt quả tang, D sợ nên vứt gói ma túy vừa mua được xuống sàn nhà, L cầm hộp nhựa đựng Heroine cất giấu trong nhà vệ sinh. Những dụng cụ gồm 01 tấm kính, 01 cân tiểu ly, 01 dao lam, nhiều vỏ Ti nilon các loại, L dùng để chia ma túy ra thành các gói nhỏ bán kiếm lời. Số tiền 610.000 đồng thu trên giường ngủ là của L (trong đó có 100.000 đồng L vừa bán ma túy cho D). Ngoài ra, L còn khai trước khi bị bắt L đã bán ma túy cho D, Th, T nhiều lần ở tại nhà L. Lần gần nhất L bán cho D 01 gói ma túy đá với giá 100.000 đồng vào ngày 25/4/2020; bán cho Th vào các ngày 25 và 27/4/2020 mỗi lần 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng/ gói; bán cho T vào các ngày 23 và 26/4/2020.

Đến ngày 29/5/2020 L thay đổi lời khai tại biên bản hỏi cung bị can, L khai chỉ bán ma túy cho Th vào các ngày 25, 27 và 29/4/2020, còn L không bán ma túy cho D và T. Đồng thời, L khai ma túy thu giữ tại nhà L là của L, để L sử dụng dần.

Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 09/7/2020, bị cáo không thừa nhận đã bán ma túy cho Th, D, T. Toàn bộ số ma túy bị cáo mua về chia nhỏ và cất đi để sử dụng dần cho bản thân.

Người làm chứng anh Nguyễn Ngọc Th khai: Th, L và D là bạn xã hội với nhau. Th nghiện ma túy Heroine. Ngày 29/4/2020, Th và D đến nhà L chơi rồi Th mua của L 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng, Th cầm ma túy tự ý đi vào nhà vệ sinh nhà L dùng bật lửa, tờ giấy bạc màu trắng của mình mang theo sử dụng một ít, số Heroine còn lại Th đổ vào tờ giấy bạc gói lại cất vào trong Ti quần để sử dụng sau, L không biết Th sử dụng ma túy trong nhà vệ sinh nhà L. Rồi Th ra ngồi chơi với L và D thì thấy D cũng mua của L 01 gói ma túy đá với giá 100.000 đồng. Khi Th, L và D đang ngồi nói chuyện thì bị công an vào bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Ngoài ra, trước đó Th đã nhiều lần đến nhà L mua Heroine của L để sử dụng, nhưng Th chỉ nhớ 02 lần và ngày 25 và 27/4/2020, Th mua mỗi lần 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng/gói.

Người làm chứng anh Phạm Văn D khai: D, L và Th là bạn xã hội với nhau. D nghiện ma túy đá, ngày 29/4/2020 D và Th đến nhà L chơi, sau đó D thấy Th mua của L 01 gói Heroine giá 100.000 đồng, rồi Th đi vào nhà vệ sinh nhà L một lúc sau Th ra ngồi nói chuyện với L, D. Ngay sau đó, D cũng mua của L 01 gói ma túy đá với giá 100.000 đồng, D cầm gói ma túy trên tay ngồi nói chuyện với L và Th thì bị công an vào bắt quả tang, D sợ nên vất gói ma túy đá xuống đất thì bị công an thu giữ và công an thu toàn bộ vật chứng tại nhà L. Ngoài ra, D còn khai trước đó D đã nhiều lần đến nhà L mua ma túy đá, nhưng chỉ nhớ lần gần nhất vào khoảng 13 giờ ngày 25/4/2020 D mua của L 1 gói ma túy đá với giá 100.000 đồng tại nhà L.

Người làm chứng anh Lê Ngọc T khai: Khoảng 18 giờ ngày 29/4/2020, T đến nhà L để mua ma túy đá sử dụng thì thấy lực lượng Công an đang bắt giữ L, Th và D về hành vi liên quan đến ma túy, nên cũng bị lực lượng công an đưa về trụ sở để làm rõ. Ngoài ra, T còn khai trước đó T đã mua ma túy đá của L 02 lần vào các ngày 23 và 26/4/2020, mỗi lần 01 gói với giá 300.000 đồng/gói.

Người chứng kiến anh Nguyễn Anh H và bà Bùi Thị Kim Ch đều xác nhận: Vào hồi 18 giờ 30 phút ngày 29/4/2020, khi đang đi ngang qua số nhà 8/23/267 đường Lê Thánh T, phường Máy Ch, quận Ngô Q thì thấy cơ quan Công an đang bắt giữ 04 người (sau này được biết là L, Th, D, T). Công an đã mời chứng kiến việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2020/HS-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Căn cứ điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lê Đình L 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 4 năm 2020.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/12/2020 bị cáo Lê Đình L có đơn kháng cáo kêu oan, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Đình L giữ nguyên các nội Dng kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội ban đầu của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng là anh Phạm Văn D và Nguyễn Ngọc Th; biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Bị cáo đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho anh Nguyễn Ngọc Th, Phạm Văn D với mục đích kiếm lời. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng quy định của pháp luật. Bị cáo kêu oan nhưng không đưa ra được căn cứ để chứng minh cho hành vi của mình. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Trên cơ sở nội Dng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1.1] Mặc dù tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra (từ ngày 01/5/2020 đến ngày 29/5/2020), lời khai của anh Phạm Văn D và Nguyễn Ngọc Th là người trực tiếp đến mua ma túy tại nhà của bị cáo; biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở khằng định:

[1.2] Trong thời gian tử ngày 23/4/2020 đến ngày 29/4/2020, Lê Đình L đã có hành vi bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời. Cụ thể: Bị cáo bán ma túy cho anh Nguyễn Ngọc Th 01 gói ma túy (Heroine) với giá 100.000 đồng và Phạm Văn D 01 gói ma túy đá (Methamphetamine) giá 100.000 đồng vào ngày 25/4/2020. Bán cho Nguyễn Ngọc Th 01 gói ma túy (Heroine) giá 100.000 đồng vào ngày 27/4/2020. Sáng ngày 29/4/2020, bị cáo L có hành vi mua 5,87 gam ma túy (gồm 2,65 gam Methamphetamine và 3,22 gam Heroine với mục đích bán kiếm lời; chiều ngày 29/4/2020, Th và D đến nhà Lê Đình L, đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày bị cáo Lê Đình L đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy Heroine (khối lượng thu giữ 0,01 gam) cho anh Nguyễn Ngọc Th với giá 100.000 đồng và 01 gói ma túy Methamphetamine cho anh Phạm Văn D (khối lượng 0,05 gam) với giá 100.000 đồng và bị bắt quả tang. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Lê Đình L:

[2] Bị cáo kháng cáo kêu oan, cho rằng số ma túy trên bị cáo chỉ để sử dụng cho bản thân vì bị cáo bị nghiện nhiều năm nay nhưng không đưa ra được các chứng cứ hợp pháp để chứng minh cho hành vi của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đình L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lê Đình L 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 4 năm 2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Đình L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án số 157/2020/HS-ST ngày 15-12-2020 của Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HS-PT ngày 19/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về