Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 26/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

 Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 598/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976 Địa chỉ: ấp KX, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu Chỗ ở hiện nay: k 3, phường LT, thị xã GR, tỉnh Bạc Liêu

 - Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1974 Địa chỉ: ấp KX, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13/10/2020, lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Th xác định giữa chị và anh Nguyễn Văn Đ đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục tại địa phương vào năm 1999, nhưng đến nay anh chị vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị Th xác định: trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu Thẫn, do bất đồng quan điểm sống, anh Đ thường xuyên nhậu say về kiếm chuyện đánh đập, chửi vợ con, nên từ đó dẫn đến đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Hiện chị và anh Đ đã sống ly thân với nhau từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay, trong thời gian này vợ chồng không quan tâm nhau, cũng như không tìm được biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với anh Đ được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về quan hệ con chung: chị Nguyễn Thị Th xác định trong thời gian vợ chồng chung sống có với nhau 03 người con chung tên Nguyễn Hữu Ngh, sinh ngày 15/8/2000, Nguyễn Hữu T, sinh ngày 06/9/2005 và Nguyễn Hồng L, sinh ngày 28/6/2010. Hiện cháu Ngh đã trưởng thành và có khả năng lao động nên khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Chị yêu cầu được nuôi cháu T và cháu L, chị không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Đối với anh Nguyễn Văn Đ: Mặc dù anh Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Đ vẫn không đến Tòa án Đ làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh Đ theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Th xác định không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết trong vụ án này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Đ chưa chấp hành nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Do người con chung tên Nguyễn Hữu Ngh đã trưởng thành và có khả năng lao động nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 người con chung tên Nguyễn Hữu T, sinh ngày 06/9/2005 và Nguyễn Hồng L, sinh ngày 28/6/2010 cho chị Nguyễn Thị Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Văn Đ được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị Nguyễn Thị Th phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Nguyễn Thị Th có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ. Anh Nguyễn Văn Đ có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án Thộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị Nguyễn Thị Th có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Nguyễn Thị Th.

Anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai Đ tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Nguyễn Văn Đ vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Văn Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau vào năm 1999, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, đến nay thì anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị Th xin ly hôn với anh Đ thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị Th và anh Đ ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị Th và anh Đ sống ly thân với nhau thì người con chung tên Nguyễn Hữu T và Nguyễn Hồng L là do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị Th vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, mặc khác cháu T và cháu L có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ là chị Nguyễn Thị Th. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao con cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp. Đối với người con chung tên Nguyễn Hữu Ngh đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Văn Đ được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Thị Th phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ là vợ chồng.

2/. Về con chung: giao 02 người con chung tên Nguyễn Hữu T sinh ngày 06/9/2005 và Nguyễn Hồng L, sinh ngày 28/6/2010 cho chị Nguyễn Thị Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Văn Đ được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị Th không đặt ra yêu cầu nên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai Th số 0008166 ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:26/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về