Bản án 26/2020/HSST ngày 30/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2020/HSST, ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Rah Lan Ph, sinh năm 1985 tại huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai; Trú tại: Buôn Thăm, xã Ia Trôk, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: không đi học; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông R ô Br (đã chết) và bà Rah Lan H’Nh, sinh năm 1948; Vợ chị Mlô H’Y, sinh năm 1989; Bị cáo có 02 con lớn nhất 2007, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án: Ngày 21/11/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không; Bị cáo tự nguyên thi hành án vào ngày 11/8/2020 và hiện đang thi hành án tại Phân trại số 04, Đội 14 K4 Trại giam Gia Trung – Cục C10 Bộ Công an; hiện bị cáo đã được trích xuất về nhà tạm giữ công an huyện Krông Pa và hiện có mặt tại phiên tòa.

2. Ksor E, sinh năm 1982 tại thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai; Trú tại : Buôn Phu Ama Miơng, xã Ia RTô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: không đi học; Dân tộc: Jrai; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch:

Việt Nam; Con ông Rcom G, sinh năm 1955 và bà Ksor H’L, sinh năm 1960; Vợ là chị Siu H’H, sinh năm 1988; Bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2004 và con nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

-Người bào chữa cho bị cáo Ksor Eo: Bà Ngô Thị V - trợ giúp viên pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai (Có mặt).

- Người bị hại: Ông Kpă V, sinh năm 1962 và bà Rơ Ô H’M, sinh năm 1964. Trú tại: Buôn Phùm, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai(Có mặt) -Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Chị Mlô H’Y, sinh năm 1989;

Trú tại: Buôn Thăm, xã Ia Trôk, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai (Có mặt)

+ Ông Rcom G, sinh năm 1955 và bà Ksor H’L, sinh năm 1960 Trú tại: Buôn Phu Ama Miơng, xã Ia RTô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt đã có đơn xin được xét xử vắng mặt)

-Người làm chứng:

+ Anh Ksor X, sinh năm 1987 Trú tại: Buôn Phu Ama Miơng, xã Ia Rtô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai (Vng mặt)

+ Anh Ksor L, sinh năm 1990 Trú tại: Buôn Phùm, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt)

 - Người phiên dịch tiếng Jrai: Anh Nay Dăm Tr, sinh năm 1986 Trú tại: Tổ dân phố 7, thị trấn Phú Túc, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Do biết trước tại rẫy nhà ông Kpă V thuộc buôn Phùm, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa có bò nên vào khoảng 22 giờ ngày 05/8/2020, Rah Lan Ph đã nảy sinh ý định trộm căp bò về làm thịt ăn nên đã rủ Ksor E đi trộm cắp bò và được Ksor E đồng ý, sau đó Phôr đã điều khiển xe BKS 81H6-9970 chở Eo đến nhà ông V để trộm cắp bò. Khi đi đến gần chòi rẫy nhà ông Vinh thì Ph dừng xe cách khoảng 200m và cùng với E mang theo bao tải bên trong đựng dụng cụ xe máy và 01 con dao đi vào rẫy nhà ông V. Khi đến nơi cách khoảng 30m, Ph để bao tải ở đây và cả hai đi vào chòi rẫy nhà ông V, Ph vào trong dắt bò, E ở ngoài cảnh giới. Sau khi trộm được bò thì Ph là người dắt, còn E là người lùa bò theo sau. Khi đi đến chỗ để bao tải thì Ph dùng một khúc gỗ dài 80cm, đường kính 9cm gần đó đập nhiều cái vào đầu bò đến chết và sau đó xẻ thịt ở hai đùi sau, đùi bên phải và bao tử bỏ vào bao đem về chòi rẫy của Ph nấu ăn một ít khoảng 500gam. Số thịt còn lại thì các bị cáo cất trong can nhựa màu trắng loại 20 lít, ướp muối bảo quản ăn dần. Sáng ngày 06/8/2020 biết hành vi bị tiết lộ thì các bị cáo đã đến Công an xã Ia Rsươm khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐG ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Pa: 01 con bò cỏ, giống cái màu lông vàng, 04 năm tuổi có trọng lượng khoảng 120kg có trị giá là 13.200.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.

Trong phần tranh luận đại diện viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử kết án bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 58 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Rah Lan Ph từ 01(một) năm 03(ba) tháng tù đến 01(một) năm 06(sáu) tháng tù và tổng hợp với 12 (mười hai) tháng tù của bản án số 21/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Buộc bị cáo Rah Lan Ph phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án;

-Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65;

Điều 58 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Ksor E từ 09 tháng tù đến 01 năm tù nhưng cho hưởng án teo. Thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06(sáu) tháng đến 02(hai) năm.

-Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 khúc gỗ dài 80 cm, hình trụ có đường kính mặt tiết diện 09 cm; 01 con dao dài 40 cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 19 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 28 cm, bản rộng 03 cm; 01 bao tải loại bao xác rắn màu xanh; 01 can nhựa màu trắng loại 20 lít, phần nắp can bị cắt. Các bị cáo mỗi người phải phải 200.000 đồng chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Quan điểm bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Ksor E cho rằng, trợ giúp viên pháp lý không tranh luận với Kiểm sát viên về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; mức đề nghị của Kiểm sát viên xử phạt bị cáo Ksor Eo từ 09 tháng tù đến 01 năm tù là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Do biết được chòi rẫy của nhà ông V, bà H’M có con bò cột tại rẫy nên vào khoảng 22 giờ ngày 05/8/2020, bị cáo Rah Lan Ph rủ bị cáo Ksor E đi trộm cắp bò xẻ thịt đem về ăn thì được bị cáo E đồng ý. Sau đó, bị cáo Rah Lan Ph điều khiển xe BKS 81H6-9970 chở bị cáo E đến chòi rẫy nhà ông V, bà H’M để trộm cắp bò. Khi đi cách chòi rẫy nhà ông V, bà H’M 30m thì các bị cáo dừng xe và để bao tải lại rồi các bị cáo đi bộ, đi đến chỗ cột bò thì bị cáo Rah Lan Ph vào trong dắt bò, còn bị cáo E đứng cảnh giới. Sau khi lấy trộm được con bò thì bị cáo Ph dắt bò đi trước còn bị cáo E lùa bò đi theo sau. Khi đi đến chỗ để bao tải thì bị cáo Ph dùng cây gỗ đập vào đầu con bò nhiều cái cho đến khi bò chết, sau đó các bị cáo xẻ thịt con bò ở hai đùi sau, đùi bên phải và bảo tử bỏ vào bao đem về chòi rẫy của Ph nấu ăn một ít khoảng 500gam. Số thịt còn lại thì các bị cáo cất trong can nhựa màu trắng loại 20 lít, ướp muối bảo quản ăn dần mà theo bản kết luận định giá tài sản số 39/KL- HĐĐG ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông Pa xá định : 01 con bò cái cỏ, màu lông vàng, 04 năm tuổi có trọng lượng khoảng 120kg có trị giá là 13.200.000 đồng Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người làm chứng cũng như các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa truy tố các bị cáo về hành vi theo tội danh trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: hành vi của bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 của BLHS.

[4] Tính chất, vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

[4.1] Về tính chất: Hành vi của bị cáo đã lén lút chiếm đoạt 01 con bò cái cỏ, màu lông vàng, 04 năm tuổi có trọng lượng khoảng 120kg của người bị hại ông Kpă V và bà Rơ Ô H’M có trị giá là 13.200.000 đồng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Xét về tính chất vụ án tuy có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không có sự bàn bạc trước, không có sự tổ chức cấu kết chặt chẽ với nhau, không phân công công việc cụ thể cho nhau, không lên kế hoạch thực hiện, không có người chỉ huy, cầm đầu nên đây là loại đồng phạm giản đơn. Nay cần xét đến vai trò, mức độ tham gia, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của mỗi bị cáo để cá thể hóa hình phạt tương xứng với hành vi của mỗi bị cáo là điều cần thiết.

[4.2] Về vai trò của từng bị cáo: Các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi nguy hiểm và gây hậu quả xấu cho xã hội làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Trong vụ án này bị cáo Rah Lan Ph là người khởi xướng, rủ rê và thực hiện rất tích cực việc trộm cắp tài sản nên bị cáo Rah Lan Ph phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn bị cáo Ksor E. Ngoài ra, bị cáo Ph có 01 tiền án là ngày 21/11/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Điều 69 và 70 của Bộ luật hình sự, đây là tình tiết tái phạm tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 53 và điểm h khoản 1 Điều 52- Bộ luật hình. Chứng tỏ bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật và coi thường tài sản hợp pháp của công dân. Còn đối với bị cáo Ksor E nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng khi bị cáo Rah Rah Phôr rủ đi trộm cắp tài sản của người khác thì bị cáo đồng ý nên bị cáo E cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Do vậy, khi lượng hình cần xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mỗi bị cáo để quyết định hình phạt cho phù hợp và đúng theo quy định của pháp luật.

[4.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội các bị cáo đã cùng nhau bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả cho người bị hại. Bện cạnh đó các bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đồi núi, đặc biệt khó khăn và nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình bị cáo Ph thuộc hộ nghèo, bà ngoại của bị cáo E có công cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự được áp dụng cho các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E. Ngoài ra, bị cáo Ksor E phạm tội lần này thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự được áp dụng cho bị cáo Ksor E.

Bị cáo Rah Lan Phôr phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định điểm h khoản 1 Điều 52- Bộ luật hình được áp dụng cho bị cáo Rah Lan Ph.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì HĐXX thấy bị cáo Rah Lan Ph là người khởi xướng, rủ rê và thực hiện rất tích cực việc trộm cắp nên bị cáo Rah Lan Ph phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn bị cáo Ksor E; bị cáo Rah Lan Ph đã có một tiền án đó là ngày 21/11/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để nhằm mục đích trừng trị nhưng cũng giúp cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, đồng thời qua đó răn đe và phòng ngừa loại tội phạm này tái diễn trên địa bàn.

Còn đối với bị cáo Ksor E nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng khi bị cáo Rah Rah Ph rủ đi trộm cắp tài sản của người khác thì bị cáo đồng ý nên bị cáo E cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, tuy nhiên bản thân bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú, có chỗ ở ổn định, không có tình tiết tăng nặng nên có đủ điều kiện để xử bị cáo E hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo có thời gian thử thách theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo, mà không cần phải cách ly bị cáo E ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Nhưng vẫn đảm bảo tính giáo dục, cải tạo, trừng trị nói riêng đối với bị cáo, tính răn đe phòng ngừa chung cho xã hội đồng thời thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta Về hình phạt bổ sung bằng tiền quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì xét thấy thu nhập của các bị cáo không ổn định, đời sống còn gặp nhiều khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

Xét quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm bào chữa của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Ksor E tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên cần chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E chiếm đoạt của ông Kpă V, bà Rơ Ô H’M 01 con bò cỏ, giống cái, màu lông vàng, 04 năm tuổi có trọng lượng khoảng 120kg có trị giá là 13.200.000 đồng. Trong quá trình điều tra các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho ông Kpă V, bà Rơ Ô H’M 01 cặp con bò mẹ con và số tiền 5.000.000 đồng để cúng theo phong tục. Tại phiên tòa giữa các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không bên nào yêu cầu hay tranh chấp gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pa đã tạm giữ của bị cáo Rah Lan Phôr : 01 khúc gỗ dài 80 cm, hình trụ có đường kính mặt tiết diện 09 cm; 01 con dao dài 40 cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 19 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 28 cm, bản rộng 03 cm; 01 bao tải loại bao xác rắn màu xanh; 01 can nhựa màu trắng loại 20 lít, phần nắp can bị cắt. Đây là công cụ mà bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với xe mô tô BKS 81H6-9970 đứng tên chủ sở hữu là Nguyễn Thanh T (Chiếc xe này, Nguyễn Thanh T chuyền nhượng cho bị cáo và vợ bị cáo là chị Mlô H’Y) mà bị cáo sử dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Đây là tài sản chung của gia đình bị cáo để làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo điều khiển xe này đi trộm cắp tài sản của người khác, chị H’Y không biết nên trong quá trình điều tra, Công an huyện Krông Pa đã trả lại xe mô tô trên cho bị cáo và vợ của bị cáo là chị Mlô H’Y nên Hội đồng xét xử không đề cập đến nữa.

[7] Về án phí: Các bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E mỗi người phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Rah Lan Ph và Ksor E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Rah Lan Ph 01(một) năm 03(ba) tháng tù;

Áp dụng Khoản 2 Điều 56 – Bộ luật hình sự: Tổng hợp với 12 (mười hai) tháng tù của bản án số 21/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Buộc bị cáo Rah Lan Ph phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành bản án số 21/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai;

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 58 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Ksor E 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01(một) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án là ngày 30/12/2020.

Giao người được hưởng án treo Ksor E cho ủy ban nhân dân xã Ia RTô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 khúc gỗ dài 80 cm, hình trụ có đường kính mặt tiết diện 09 cm; 01 con dao dài 40 cm, cán dao bằng nhựa màu đen dài 19 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 28 cm, bản rộng 03 cm; 01 bao tải loại bao xác rắn màu xanh; 01 can nhựa màu trắng loại 20 lít, phần nắp can bị cắt. Đặc điểm chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Pa.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghi quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Các bị cáo Ksor E và Rah Lan Ph mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăn nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo, những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/12/2020), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

466
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HSST ngày 30/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về