Bản án 26/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

 BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 30/11/ 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2020/HSST ngày 30/10/2020; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/HSST-QĐ ngày 17/11/2020; Đối với bị cáo:

Hoàng Tư D, sinh năm 2001;

ĐKHKTT: Xóm Tớn, xã PV, huyện T, tỉnh Hòa Bình; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Hoàng Văn Dần, sinh năm 1974 và bà Trần Thị Liên, sinh năm 1973; Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/8/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh; Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Anh Đinh Công T, sinh năm 2000, vắng mặt;

HKTT: Xóm Ngau, xã PV, huyện Tc, tỉnh Hòa Bình;

 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Trung H, sinh năm 1976, vắng mặt;

Địa chỉ: Khu phố 1 Cẩm Giang, phường ĐN, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h30 ngày 23/8/2020, Hoàng Tư D nhờ anh Đinh Công T chở đến chỗ bạn để vay tiền. Anh T đã sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu bạc, BKS 28E1-182.73 để chở D đi. Duy đã mượn điện thoại của anh Tới để gọi cho bạn. Anh T đã đưa cho D chiếc điện thoại Iphone 6. Gọi xong điện thoại, D cất vào túi quần đang mặc. Anh T và D đi đến phường Đồng Kỵ, nhưng D không vay được tiền. Anh T tiếp tục chở D đi về. Khi đến khu vực trạm ATM (đường tỉnh lộ 295B, thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn), anh T đỗ xe ở lòng đường và đi vào trạm ATM để rút tiền. Chiếc xe mô tô dựng ở lề đường, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Lúc này, chỉ có mình D đứng cạnh xe mô tô. Lợi dụng khi anh T không để ý, D đã mở cốp xe cất chiếc điện thoại vẫn giữ của anh T. Sau đó mở khóa điện, điều khiển xe theo hướng về phường ĐNn, thị xã Từ Sơn. Xe bị hết xăng, D xuống xe dắt lòng vòng qua khu vực dân cư để tìm nơi tiêu thụ là tránh sự phát hiện của anh T.

Khoảng 18h, D tìm đến nhà anh Trần Trung H. D đã hỏi vay anh H 200.000đồng và để lại chiếc điện thoại làm tin. D sử dụng số tiền này mua xăng và chi tiêu cá nhân. D điều khiển xe đi về phòng trọ tại xã Phù Chẩn để cất giấu. Ngày 24/8/2020, D đến Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thị xã Từ Sơn đầu thú và tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô đã chiếm đoạt của anh T.

Chiếc điện thoại Iphone 6 đã được anh H tự nguyện giao nộp và chiếc xe mô tô đều được trả lại cho anh Tới. Anh T nhận đầy đủ tài sản, đúng đặc điểm và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Anh H cũng tự nguyện không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã vay 200.000đồng.

Kết luận định giá tài sản số: 58/KL-HĐĐG ngày 26/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Từ Sơn đã kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen bạc, BKS 28E1-182.73 đã qua sử dụng, có giá trị 14.000.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 giá trị 1.000.000đồng.

Cáo trạng số 215/CT-VKS ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Tư D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 - Bộ luật hình sự, đối với hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Tới.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi của mình, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội; sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 - BLHS; Xử phạt: Hoàng Tư Duy từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 24/8/2020; Không áp dụng hình phạt bổ sung; Truy thu số tiền 200.000đồng của bị cáo đã nhận của anh Hiếu để sung ngân sách nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu có trong hồ sơ, đã có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 18h ngày 23/8/2020, bị cáo Hoàng Tư D đã lợi dụng việc anh Đinh Công T dựng xe ở lề đường để vào trạm ATM rút tiền để chiếm đoạt của anh Tới chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen bạc. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 – BLHS như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương. HĐXX xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại phiên tòa hôm nay cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Bị cáo đã tự giác ra đầu thú đề khai báo về hành vi phạm tội và tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô chiếm đoạt. HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51-BLHS.

Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen bạc, BKS 28E1-182.73 và chiếc điện thoại Iphone 6 của anh Tới đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại. Anh T nhận lại xe và không có yêu cầu gì. Anh H là người cầm cố chiếc điện thoại và cho bị cáo vay số tiền 200.000đồng. Anh H không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên. Do vậy, HĐXX không xem xét.

Liên quan trong vụ án này còn có hành vi của bị cáo đã mượn điện thoại di động của anh T để gọi điện cho bạn, sau đó đã chiếm đoạt. Trị giá chiếc điện thoại được định giá 1.000.000đồng. Với giá trị tài sản bị chiếm đoạt chưa đủ yếu tố cầu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt” nên hành vi này đã bị Công an thị xã Từ Sơn xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000đồng là thỏa đáng. Anh Trần Trung H là người cầm cố chiếc điện thoại của bị cáo chiếm đoạt của anh Tới. Khi vay tiền, bị cáo không nói cho anh H biết là tài sản vừa chiếm đoạt được. Do vậy, không có căn cứ xử lý mà chỉ cần nhắc nhở là đủ.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Hoàng Tư D phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; – Bộ luật Hình sự:

Điều 106 ; Điều 136 ; khoản 3 Điều 329, Điều 331, Điều 333-Bộ luật tố tụng hình sự ;

Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ngày 30/12/2016;

Xử phạt : Hoàng Tư D: 12(Mười hai) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 24/8/2020;

Quyết định tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo Thi hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về