Bản án 26/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2020/TLST-HS ngày 28/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 18/11/2020 đối với bị cáo:

HOÀNG VĂN L; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 03/3/1992 tại huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Bản T, xã Hoa T, huyện B, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn V và bà Hà Thị N, có vợ là Hoàng Thị T, có 01 con:

Tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/7/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Ma Văn D; sinh năm: 1995:

địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh L. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa: Bà Đỗ Thị X; sinh năm: 1981 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 19/7/2020 tại đoạn đường liên xã Kim L thuộc địa phận thôn B, xã Kim L, huyện Na, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác của Công an huyện N đang thực hiện nhiệm vụ phát hiện Hoàng Văn L đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER, biển kiểm soát (BKS) 12B1-138.52 theo hướng Kim L có biểu hiệu nghi vấn. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, đối tượng khai nhận tên là Hoàng Văn L, sinh năm: 1992; trú tại: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh L, L thừa nhận mình là người nghiện ma túy và đang tàng trữ trái phép ma túy trên người. Lòng tự giác lấy từ trong túi áo bên phải ra giao nộp cho cơ quan Công an 01 gói nilon màu hồng, bên trong gói nilon có một lớp giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng, mở lớp giấy này ra bên trong có chứa chất màu trắng dạng cục và bột nghi là ma túy. Tổ công tác tiến hành thử nhanh chất bột màu trắng trên với dung dịch thuốc thử heroine, kết quả ban đầu xác định chất bột màu trắng trong gói nhỏ Hoàng Văn Lòng giao nộp là ma túy loại heroine. Sau khi thử phản ứng, chất màu trắng được gói lại như ban đầu và cho vào phong bì niêm phong ký hiệu A1. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn L đồng thời tạm giữ các đồ vật gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ đen đã cũ, có số IMEI1 là 865141043504816, số IMEI2 là 865141043504808, bên trong có lắp 01 sim số thuê bao 0865711663; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu xanh BKS 12B1-138.52 đã qua sử dụng; số tiền 110.000đ (một trăm mười nghìn đồng) phát hiện trong cốp xe.

Hồi 20 giờ 20 phút ngày 19/7/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng vật chứng, kết quả xác định: Chất màu trắng dạng bột và cục trong phong bì ký hiệu A1 có khối lượng 0,202g (Không phẩy hai không hai gam). Sau khi cân xác định khối lượng, chất màu trắng được niêm phong lại trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định, số vật chứng còn lại gồm 01 phong bì ký hiệu A1 đã mở niêm phong, một mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 mảnh giấy nilon màu hồng được cho vào phong bì mới niêm phong ký hiệu B2.

Ngày 20/7/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định đối với chất màu trắng dạng bột và dạng cục thu giữ được, Kết luận giám định số 126/KTHS-MT ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu B1 là ma túy, loại heroine có khối lượng 0,202g (Không phẩy hai không hai gam). Sau giám định, mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại 0,180g (Không phẩy một tám không gam) cùng phong bì bao gói cũ cho vào phong bì mới niêm phong ký hiệu T126 hoàn trả lại cho Cơ quan điều tra Công an huyện N.

Quá trình điều tra, Hoàng Văn L khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 19/7/2020, Hoàng Văn L mượn xe mô tô BKS 12B1 - 138.52 của Ma Văn D (sinh năm: 1995; trú tại: Thôn B, xã H, huyện B, tỉnh L) đi sang huyện N, tỉnh Bắc Kạn, đến bến xe khách huyện N, Lòng mua ma túy của một người đàn ông không quen biết với số tiền 300.000đ, được 01 gói nhỏ. Sau khi mua được ma túy, L quay về theo đường xã Kim L, đến địa phận thôn B, xã K thì bị cơ quan chức năng phát hiện. L thừa nhận bản thân là người nghiện, mục đích mua ma túy là để sử dụng cho bản thân. Kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 19/7/2020 cũng cho thấy Hoàng Văn L dương tính, có sử dụng ma túy.

Cáo trạng số 30/CT-VKS-NR ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố Hoàng Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Hoàng Văn L thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố, bị cáo L khai mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy là do bị cáo nghiện ma túy, nên bị cáo mua về để sử dụng.

- Anh Ma Văn D trình bày: Anh D là chủ sở hữu chiếc xe máy YAMAHA EXCITER, BKS 12B1 - 138.52. Tháng 4/2020 anh D đi làm công nhân ở Bắc Ninh, nên cho anh L mượn xe để đi lại hàng ngày, sau khi L bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, anh D mới biết là L đã sử dụng xe mô tô của mình đi mua ma túy. Anh D đề nghị HĐXX trả lại xe mô tô cho anh D, để anh D tiếp tục sử dụng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Hoàng Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo.

- Người bào chữa nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, không có tài sản nên đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo 12 (mười hai) tháng tù giam, miễn án phí và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Na Rì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Rì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã đảm bảo tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, từ đó có cơ sở để kết luận:

Ngày 19/7/2020, tại đoạn đường liên xã Kim L thuộc địa phận thôn B, xã Kim L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,202g (Không phẩy hai không hai gam) ma túy, loại heroine, mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân. Xét thấy Cáo trạng số 30/CT-VKS-NR ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn truy tố Hoàng Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Lòng là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện chất ma túy. Do vậy, cần phải có một mức án phù hợp để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo và thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiết tăng nặng.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T126, một mặt phong bì có ghi "Vụ Hoàng Văn Lòng (1992) - Tàng trữ trái phép chất ma túy", bên trong phong bì có 01 phong bì ký hiệu B1 đã mở niêm phong, giấy gói ma túy gửi giám định và mẫu vật ma túy còn lại sau giám định (0,180g ma túy, loại heroin); 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2, một mặt phong bì có ghi "Vật chứng còn lại vụ Hoàng Văn L tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 19/7/2020", bên trong phong bì có 01 phòng bì ký hiệu A1 đã mở niêm phong, 01 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 mảnh nilong màu hồng; 01 phong bì ký hiệu A3 đã mở niêm phong.

- 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, màu đỏ đen đã qua sử dụng, số IMEI1 là 865141043504816, số IMEI2 là 865141043504808, bên trong có lắp 01 sim số thuê bao 0865711663 và số tiền 110.000đ (một trăm mười nghìn đồng) xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội, bị cáo đề nghị được lấy lại, do đó cần trả lại cho bị cáo.

- Xét thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu xanh đã qua sử dụng, BKS 12B1-138.52 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 011596 mang tên Ma Văn D BKS 12B1-138.52 thuộc sở hữu hợp pháp của Ma Văn D, D cho bị cáo mượn xe dùng làm phương tiện đi lại, việc bị cáo Lòng dùng xe mô tô của D làm phương tiện đi mua ma túy D không biết. Do đó, cần trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu xanh đã qua sử dụng, BKS 12B1-138.52 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 011596 mang tên Ma Văn D, BKS 12B1-138.52cho chủ sở hữu hợp pháp là Ma Văn D.

[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và có đơn đề nghị miễn án phí, Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo theo quy định.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Hoàng Văn L, quá trình điều tra Lòng khai đã mua ma túy với một người đàn ông không quen biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ mở rộng điều tra để làm rõ người đã bán ma túy cho lòng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L 14 tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/7/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ký hiệu T126, một mặt phong bì có ghi "Vụ Hoàng Văn L (1992) - Tàng trữ trái phép chất ma túy", bên trong phong bì có 01 phong bì ký hiệu B1 đã mở niêm phong, giấy gói ma túy gửi giám định và mẫu vật ma túy còn lại sau giám định (0,180g ma túy, loại heroin):

01 phong bì niêm phong ký hiệu B2, một mặt phong bì có ghi "Vật chứng còn lại vụ Hoàng Văn L tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 19/7/2020", bên trong phong bì có 01 phòng bì ký hiệu A1 đã mở niêm phong, 01 mảnh giấy một mặt màu vàng một mặt màu trắng và 01 mảnh nilong màu hồng; 01 phong bì ký hiệu A3 đã mở niêm phong.

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, màu đỏ đen đã qua sử dụng, số IMEI1 là 865141043504816, số IMEI2 là 865141043504808, bên trong có lắp 01 sim số thuê bao 0865711663 và số tiền 110.000đ (một trăm mười nghìn đồng).

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Ma Văn D, sinh năm: 1995; trú tại: Thôn Bản Thẳm, xã Hoa Thám, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu xanh đã qua sử dụng, BKS 12B1-138.52 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 011596 mang tên Ma Văn D, BKS 12B1-138.52.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N ngày 20/11/2020).

4. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng Văn L.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngân Sơn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về