Bản án 26/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh V (Nguyễn Thanh V), sinh năm 1994; nơi sinh: Tại tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp Bình Du A, xã An Thạnh 2, huyện Cù Lao D, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ và con bà không rõ; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 06/9/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản và ngày 10/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bị cáo bị bặt tạm giam từ ngày 04/6/2020 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại:

+ Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp Bờ K, xã Hậu Th, huyện Long Ph, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Ông Huỳnh Hoàn M, sinh năm 1971; địa chỉ: Ấp Bờ K, xã Hậu Th, huyện Long Ph, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

+ Bà Huỳnh Thị Huyền Tr, sinh năm 1997; địa chỉ: Ấp Bờ K, xã Hậu Th, huyện Long Ph, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Bà Huỳnh Thị Tú U, sinh năm 1991; địa chỉ thường trú: Ấp Mỹ Tân, xã Thiện Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở hiện nay: Nhà trọ số 298/2 đường Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Huỳnh Minh C(Gum), sinh năm 1985; địa chỉ: Số 65/9/4, đường Nguyễn Thị Minh Khai, khóm 3, phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Ông Đặng Hoàng H, sinh năm 1995; địa chỉ: Ấp Trường Lộc, xã An Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Ông Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 63, kinh 30/4, khóm 6, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

+ Ông Phạm Hữu M, sinh năm 1954; địa chỉ: Số 46/2/24, đường Trương Công Định, khóm 6, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

+ Ông Lý Thanh L, sinh năm 1965; địa chỉ: Số 32A, đường Trương Công Định, khóm 6, phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

- Người tham gia tố tụng khác(Người làm chứng):

+ Ông Phương Du H, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 334/18, Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Ông Trương Minh Hsinh năm 1994; địa chỉ: Số 334/18, Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm 1990; địa chỉ thường trú: Ấp An Luân B, xã Long An, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long; chỗ ở hiện nay: Nhà trọ số 298/2, Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 19/5/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô 83P2-960.74 (bị cáo mượn xe của Nguyễn Minh Cường (Gum) đi từ thành phố Sóc Trăng đến địa bàn huyện Long Phú để trộm cắp tài sản, khi đi bị cáo đem theo 01 bọc nylon màu đen, bên trong có 01 cây kìm bấm bằng kim loại, 01 cây tua-vít bằng kim loại có cán bằng nhựa màu đỏ. Bị cáo điều khiển xe đi trên Quốc lộ 60, khi đến địa phận ấp Bờ K, xã Hậu Th, huyện Long Ph thì bị cáo rẽ vào Huyện lộ 21, khi đi ngang nhà của ông Huỳnh Hoàn M, bà Nguyễn Thị Tuyết N; bị cáo phát hiện nhà ông Mỹ bà Nga khóa cửa nên bị cáo quay xe lại và đậu xe trước cổng nhà của ông Mỹ bà Nga. Bị cáo lấy bọc nylon đen có chứa cây kìm và cây tua-vít rồi bị cáo mở cửa cổng nhà ông Mỹ bà Nga và đi vào, do cửa nhà chính bị khóa nên bị cáo lấy cây kìm cắt đứt khoen cửa nhà bên hông rồi đi vào nhà. Khi vào trong phòng thì bị cáo phát hiện 01 con heo đất màu vàng có hoa văn để trên giường ngủ, bị cáo dùng kìm đập bể con heo đất và lấy được số tiền 7.000.000 đồng. Bị cáo tiếp tục đi vào phòng ngủ cạnh phòng khách (phòng ngủ của Huỳnh Thị Huyền Tr – là con của ông Mỹ và bà Nga), tại đây bị cáo lấy được 01 cái đồng hồ đeo tay nữ có dây bằng kim loại màu vàng, mặt đồng hồ tròn (đồng hồ này là của bà Nga), bị cáo phát hiện 01 con heo đất màu vàng có ánh kim của Trang để trên bàn học, bị cáo lấy con heo đất để xuống nền nhà rồi dùng kìm đập bể con heo đất và lấy được số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo tiếp tục đi lên phòng khách để tìm tài sản, bị cáo dùng tua-vít cạy cửa tủ ở phòng khách thì phát hiện 01 túi xách màu cam (da bò), bên trong túi xách có số tiền 3.500.000 đồng (gồm 01 cọc tiền 1.500.000 đồng, 01 cọc tiền 2.000.000 đồng) và 01 cái ví da màu trắng. Sau khi lấy trộm được tài sản thì bị cáo đi ra ngoài và lên 83P2-960.74 bỏ chạy về hướng thành phố Sóc Trăng, trên đường bỏ chạy thì bị cáo vứt bỏ cái đồng hồ đeo tay nữ có dây bằng kim loại màu vàng, mặt đồng hồ tròn.

Tại kết luận định giá tài sản số 13/KL.HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Long Phú kết luận: 01 (một) cái đồng hồ đeo tay nữ có dây bằng kim loại màu vàng, mặt đồng hồ tròn, có giá trị: 180.000 đồng (Một trăm tám mươi ngàn đồng).

Xét thấy có đủ căn cứ nên ngày 04/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thanh Vủ (Vũ) về Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quá trình điều tra bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội và bị cáo khai nhận còn thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 02/6/2020 bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên bị cáo đem theo 01 cây kìm bấm và 01 cây tua-vít rồi bị cáo vào nhà trọ số 298/2, đường Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng để tìm tài sản trộm, bị cáo thấy phòng trọ số 28 của Huỳnh Thị Tú U khóa cửa bên ngoài nên bị cáo dùng kìm bẻ gãy khoen cửa phòng, bị cáo đi vào trong phòng và lấy trộm chiếc xe Honda Vision, màu xanh-đen-bạc, biển kiểm soát 83P1-412.03 của chị Tú Uyên đang đậu trong phòng, bị cáo dẫn xe ra ngoài và bỏ chạy, trên đường bỏ chạy thì bị cáo nhặt được biển số 83P1-777.85 nên bị cáo dừng xe lại, bị cáo tháo biển số 83P1-412.03 của xe Vision và vứt bỏ, sau đó bị cáo gắn biển số 83P1-777.85 vào xe Vision. Sau đó, bị cáo chạy xe Vision đến gửi tại nhà của Nguyễn Thanh Q (bị cáo không nói cho Quang biết là xe do Vủ trộm được). Đến ngày 03/6/2020 thì bị cáo đến nhà Quang lấy xe Vision có gắn biển số 83P1-777.85 và đưa cho Đặng Hoàng H, (bị cáo không nói cho Hiệp biết là xe do bị cáo trộm được); bị cáo điều khiển xe 83P2-960.74 đến khu vực thị trấn Đại Ngãi, huyện Long Phú thì xe bị hư, bị cáo điện thoại kêu Hiệp đến sửa xe cho bị cáo thì Hiệp điều khiển chiếc xe Vision chạy đến gặp bị cáo tại thị trấn Đại Ngãi. Khi Hiệp đến gặp bị cáo thì cả hai bị lực lượng Công an mời làm việc. Sau đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú thông báo hành vi của bị cáo trộm cắp chiếc xe Vision tại khu vực phường 7, thành phố Sóc Trăng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng để xử lý tin báo thẩm quyền.

Tại kết luận định giá tài sản số 94/KL.HĐĐGTS ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Sóc Trăng kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh – đen – bạc, biển số 83P1-412.03, số máy JF33E0093586, số khung 3304CY093529, đã qua sử dụng, có giá trị 14.350.000 đồng (mười bốn triệu, ba trăm năm mươi ngàn đồng). (bút lục 337-338).

Tại bản cáo trạng số: 22/CT-VKS-LP ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa căn cứ vào Điều 319 Bộ luật tố tụng hình sự đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa rút một phần quyết định truy tố cụ thể: Truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) phạm Tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; các Điều 584, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng và bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng; Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cây kìm bấm bằng kim loại, có nhiều vị trí bị rỉ sét, dài 22cm, đã qua sử dụng; 01 (một) tua-vít dài 13cm, phần cán nhựa màu đỏ dài 07cm, phần đầu bằng kim loại màu đen dài 06cm, đã qua sử dụng; 01 (một) khẩu trang bằng vải màu xanh, đã qua sử dụng; 01 (một) nón bảo hiểm màu xám, lưỡi nón màu đen, phần phía trước mũ có một tem dán, trên tem có chữ Asia HEIMETAC màu đỏ, đã quả sử dụng; 01 (một) con heo đất màu vàng có ánh kim, bị bể phần đít; 01 (một) con heo đất màu vàng, có hoa văn màu vàng, xanh lá cây, màu tím, bị bể phần lưng và phần đít; 01 (một) nón lưỡi trai màu trắng, phía trước có logo hình tròn màu xám, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thu cổ tròn màu xanh xám, phía trước ngực áo có dòng chữ SUPER DRY COLLEGE màu đỏ, trên vai áo có 03 kẻ sọc màu xám, trên cánh tay bên phải có logo, trên logo có dòng chữ By Superdry màu xanh, đã qua sử dụng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bản kết luận định giá tài sản số 13/KL.HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Long Phú; Kế luận số 94/KL.HĐĐGTS ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Sóc Trăng; bị cáo thống nhất với việc rút một phần truy tố của Viện kiểm sát và đồng ý bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng và bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng. Tại lời nói sau cùng bị cáo không có yêu cầu gì Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, bà Huỳnh Thị Huyền Tr không có ý kiến hay khiếu nại gì về về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bản kết luận định giá tài sản số 13/KL.HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Long Phú; Kế luận số 94/KL.HĐĐGTS ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Sóc Trăng; bị hại thống nhất với việc rút một phần truy tố của Viện kiểm sát và yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng và bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng và yêu cầu xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra bị hại Huỳnh Hoàn M không có ý kiến hay khiếu nại gì về về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bản kết luận định giá tài sản số 13/KL.HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Long Phú; Kế luận số 94/KL.HĐĐGTS ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Sóc Trăng và yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại theo ý kiến của bà Nga; đối với bị hại Huỳnh Thị Tú U không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự; Về trách nhiệm hình sự yêu cầu xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Long Phú, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt bị hại Huỳnh Hoàn M, Huỳnh Thị Tú U; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lý Thanh L, ông Phạm Hữu M, ông Nguyễn Thanh Q; người làm chứng Nguyễn Tấn T. Xét thấy, họ có đơn xin xét xử vắng mặt và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt không yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ vào Điều 292, Điều 293 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[3] Theo cáo trạng số 22/CT-VKS-LP ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy, theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua xét hỏi tại phiên tòa không có đủ căn cứ để chứng minh bị cáo có chiếm đoạt số tiền 29.000.000 đồng trong giỏ xách của bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ và chỉ có đủ căn cứ để chứng minh bị cáo chiếm đoạt của bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng; bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng; bị hại Huỳnh Thị Tú U 14.350.000 đồng. Tổng số tài sản chiếm đoạt của các bị hại là 27.030.000 đồng. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Long Phú huyện Long Phú rút một phần cáo trạng số 22/CT-VKS-LP ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng ý, không có ý kiến gì. Căn cứ vào Điều 298, Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[4] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan Điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như kết luận định giá tài sản số 13/KL.HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Long Phú, kết luận định giá tài sản số 94/KL.HĐĐGTS ngày 31/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Sóc Trăng; hiện trường vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cụ thể: Do muốn có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân nên vào ngày 19/5/2020, tại ấp Bờ K, xã Hậu Th, huyện Long Ph, tỉnh Sóc Trăng bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm của bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng; của bị hại Nguyễn Thị Tuyết N và Huỳnh Hoàn M số tiền 10.500.000 đồng và 01 cái đồng hồ đeo tay nữ có dây bằng kim loại màu vàng, mặt đồng hồ tròn trị giá 180.000 đồng. Đến ngày 02/6/2020 tại phòng số 28, nhà trọ 198/2, đường Quốc lộ 1, khóm 1, phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu xanh-đen-bạc biển số 83P1-412.03 trị giá 14.350.000 đồng của bị hại Huỳnh Thị Tú U. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được là 27.030.000 đồng. Mặt khác, ngày 10/4/2018 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (bản án số 07 đã xác định bị cáo tái phạm), bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/12/2019. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo chưa được xóa án tích. Như vậy, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 53 Bộ luật hình sự nên hành vi của bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị là 27.030.000 đồng mà bị cáo đã thực hiện phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[5] Do đó, cáo trạng số 22/CT-VK-SLP ngày 28/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú và việc rút một phần cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú truy tố của bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Cho nên, đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc để bị cáo có thời gian tâm đắc sửa chữa lỗi lầm, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, góp phần phòng chống tội phạm chung.

Để có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo nên Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xầu thể hiện việc bị cáo có 02 tiền án. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Hoàn M, Nguyễn Thị Tuyết N yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bị hại 10.680.000 đồng; bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho bị hại 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường nên đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; các Điều 584, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng và bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng là có căn cứ.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Long Phú đã thu giữ: 01 (một) cây kìm bấm bằng kim loại, có nhiều vị trí bị rỉ sét, dài 22cm, đã qua sử dụng; 01 (một) tua-vít dài 13cm, phần cán nhựa màu đỏ dài 07cm, phần đầu bằng kim loại màu đen dài 06cm, đã qua sử dụng; 01 (một) khẩu trang bằng vải màu xanh, đã qua sử dụng; 01 (một) nón bảo hiểm màu xám, lưỡi nón màu đen, phần phía trước mũ có một tem dán, trên tem có chữ Asia HEIMETAC màu đỏ, đã quả sử dụng; 01 (một) con heo đất màu vàng có ánh kim, bị bể phần đít; 01 (một) con heo đất màu vàng, có hoa văn màu vàng, xanh lá cây, màu tím, bị bể phần lưng và phần đít; 01 (một) nón lưỡi trai màu trắng, phía trước có logo hình tròn màu xám, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thu cổ tròn màu xanh xám, phía trước ngực áo có dòng chữ SUPER DRY COLLEGE màu đỏ, trên vai áo có 03 kẻ sọc màu xám, trên cánh tay bên phải có logo, trên logo có dòng chữ By Superdry màu xanh, đã qua sử dụng. Xét thấy, đối chiếu với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu và tiêu hủy những vật chứng nêu trên là có căn cứ [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 634.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.

[10] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt, việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[ 11] Đối với việc bị cáo đập bể 02 con heo đất, do bị hại không yêu cầu định giá tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Long Phú không xử lý Vủ về hành vi hủy hoại tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật.

[12] Đối với việc bị hại Nga báo tin bị mất 01 sợi dây chuyền vàng 24k trọng lượng 03 chỉ; 01 tấm lắc đeo tay bằng vàng 24k trọng lượng 03 chỉ; 01 chiếc nhẫn bằng vàng 24k trọng lượng 0,5 chỉ; 01 chiếc nhẫn bằng vàng 18k có đính hột đỏ trọng lượng 0,5 chỉ; 01 xâu chuỗi đeo tay có con tỳ hưu bằng vàng 24k trọng lượng 01 chỉ; số tiền 29.000.000 đồng. Quá trình điều tra không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có chiếm đoạt tài sản trên và đại diện Viện kiểm sát rút một phần truy tố đối với số tiền 29.000.000 đồng. Đồng thời, không thu giữ được số vàng nêu trên do đó không có căn cứ giám định, định giá tài sản để làm căn cứ xử lý là có căn cứ.

[13] Đối với Nguyễn Thanh Q và Đặng Hoàng H là người đã giữ chiếc xe Honda Vision cho bị cáo, tuy nhiên Quang và Hiệp không biết chiếc xe Honda Vision là do Vủ trộm cắp được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú không xử lý Quang và Hiệp về hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng quy định.

[14] Đối với Cường là người đã cho bị cáo mượn xe mô tô 83P2-960.74. Tuy nhiên Cường không biết bị cáo sử dụng xe 83P2-960.74 để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú không xử lý Cường với vai trò đồng phạm là đúng quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) 04 (Bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 04/6/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; các Điều 584, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015 Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Tuyết N, ông Nguyễn Hoàn Mỹ số tiền 10.680.000 đồng (Mười triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) và bị hại Huỳnh Thị Huyền Tr số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) cây kìm bấm bằng kim loại, có nhiều vị trí bị rỉ sét, dài 22cm, đã qua sử dụng; 01 (một) tua-vít dài 13cm, phần cán nhựa màu đỏ dài 07cm, phần đầu bằng kim loại màu đen dài 06cm, đã qua sử dụng; 01 (một) khẩu trang bằng vải màu xanh, đã qua sử dụng; 01 (một) nón bảo hiểm màu xám, lưỡi nón màu đen, phần phía trước mũ có một tem dán, trên tem có chữ Asia HEIMETAC màu đỏ, đã quả sử dụng; 01 (một) con heo đất màu vàng có ánh kim, bị bể phần đít;

01 (một) con heo đất màu vàng, có hoa văn màu vàng, xanh lá cây, màu tím, bị bể phần lưng và phần đít; 01 (một) nón lưỡi trai màu trắng, phía trước có logo hình tròn màu xám, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thu cổ tròn màu xanh xám, phía trước ngực áo có dòng chữ SUPER DRY COLLEGE màu đỏ, trên vai áo có 03 kẻ sọc màu xám, trên cánh tay bên phải có logo, trên logo có dòng chữ By Superdry màu xanh, đã qua sử dụng.

4. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh Vủ (Nguyễn Thanh Vũ) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 634.000 đồng (Sáu trăm ba mươi bốn nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về