Bản án 26/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 30/7/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2019/TLST-HS, ngày 28/6/2019; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXHS-ST, ngày 15/7/2019 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Nguyễn Văn S, sinh năm 1985, tại: huyện K, tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn S, xã C, huyện E, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1949 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1946; có vợ Nguyễn Thị TH và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang được tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

* Ngưòi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị TH, sinh năm 1987.

Trú tại: Thôn S, xã C, huyện E, tỉnh Đ (có mặt).

- Ông Thạch Hữu A, sinh năm 1957.

Trú tại: Thôn M, xã E, huyện E, tỉnh Đ (có mặt).

* Ngưòi làm chứng: Ông Hà Bình Y, sinh năm 1963.

Trú tại: Buôn V, xã C, huyện E, tỉnh Đ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng Internet, Nguyễn Văn S quen biết với một người đàn ông tự giới thiệu tên là H, nhà ở huyện K, thấy H đăng quảng cáo có pháo nổ bán nên S đã hỏi mua với mục đích sử dụng trong dịp tết Nguyên đán năm 2019. H và S thỏa thuận với nhau giá mỗi quả pháo là 32.000 đồng, S đưa số điện thoại cho H khi nào có pháo H sẽ liên lạc với S.

Khoảng 10 giờ, ngày 24/01/2019, H điện thoại cho S hẹn ra thị trấn E để giao pháo, S đồng ý và điều khiển xe môtô biển số 47F1-166.39 từ nhà mình ra thị trấn E, huyện E gặp H. H giao cho S 37 quả pháo, S trả cho H 1.184.000 đồng. Mua pháo xong S chở số pháo này về cất giấu tại nhà ở thôn S, xã C, huyện E.

Ngày 25/01/2019, H tiếp tục điện thoại cho S hẹn đến Đại lý bán lẻ xăng dầu B, thuộc xã C, huyện E để giao tiếp 205 quả pháo. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, S điều khiển môtô biển số 47F1-166.39 đến điểm hẹn. Khi đến nơi thì S gặp hai thanh niên lạ mặt được H nhờ giao pháo cho S, S đưa cho hai thanh niên này 6.400.000 đồng, hai người này chỉ cho S chỗ giấu pháo cách Đại lý bán lẻ xăng dầu B khoảng 500m. Sau đó, S đến chỗ giấu pháo thấy 01 bao xác rắn màu vàng mở ra kiểm tra thấy có pháo bên trong nên S cột lại và cho lên xe môtô rồi chở về nhà để cất giấu. Khi s điều khiển xe môtô đi đến đoạn đường thuộc buôn, xã C, huyện E thì bị Tổ công tác của Công an huyện Ea Kar đang làm nhiệm vụ tại đây phát hiện bắt quả tang. Kiểm tra trên xe môtô do S điều khiển, tổ công tác phát hiện một bao xác rắn bên trong đựng 205 quả pháo hình bóng điện tròn, Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với S và thu giữ toàn bộ tang vật liên quan. Tiếp tục khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn S, Tổ công tác phát hiện và thu giữ thêm 37 quả pháo có đặc điểm như trên.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 242 (hai trăm bốn mươi hai) vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy màu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh, tổng khối lượng là 8,9kg;

- 01 (một) xe môtô biển số 47F1-166.39, loại xe Dream, số máy 370004706, số khung 71004706, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 015884 mang tên Thạch Hữu A do Công an huyện E cấp ngày 28/9/2013;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, model 1034, đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 1351/C09B ngày 04/3/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- 205 (Hai trăm lẻ năm) vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy màu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khi đốt bay lên cao, nổ phát ra ánh sáng màu. Bên trong có thành phần thuốc pháo. Tổng khối lượng là 7,5kg.

- 37 (ba mươi bảy) vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy màu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ. Khi đốt bay lên cao, nổ phát ra ánh sáng màu. Bên trong có thành phần thuốc pháo. Tổng khối lượng là 1,4kg.

- Tổng khối lượng pháo có đầy đủ đặc tính pháo nổ gửi đi giám định là 8,9kg.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 19/2019/KL-HĐ 992 ngày 09/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ea Kar kết luận: Tại thời điểm ngày 25/01/2019, 01 (một) xe môtô biển số 47F1-166.39, nhãn hiệu LIFAN, số khung G1DL71004706, số máy MG-370004706 có giá trị là 3.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKS, ngày 27/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Qua phần thẩm vấn công khai và tranh luận tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như nội dung Bản cáo trạng.

Tại phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện EaKar giữ quyền công tố Nhà nước, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác xét xử tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Vận chuyển hàng cấm” Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 06 đên 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 235 (hai trăm ba mươi lăm) vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy máu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh, tổng khối lượng là 8,6kg (mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong thùng giấy catton) là vật chứng thuộc danh mục hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) xe môtô biển số 47F1-166.39, loại xe Dream, số máy 370004706, số khung 71004706, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 015884 mang tên Thạch Hữu A do Công an huyện E cấp ngày 28/9/2013 là tài sản chung của bị cáo Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị TH, là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe là 1.500.000đ.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, model 1034, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Văn S không có ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, thể hiện: Để phục vụ nhu cầu của bản thân muốn đốt pháo trong dịp tết nguyên đán năm 2019, thông qua mạng internet, ngày 25/01/2019 bị cáo đã mua của H (không rõ nhân thân lai lịch) 205 quả pháo loại hình bóng điện tròn, khối lượng 7,5kg trên địa bàn xã C rồi vận chuyển về nhà, khi đang trên đường vận chuyển bị Công an huyện Ea Kar phát hiện bắt quả tang. Qua khám xét tại nhà bị cáo, tiếp tục phát hiện hành vi tàng trữ 37 quả pháo loại hình bóng điện tròn, có khối lượng 1,4kg. Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, đã có đủ cơ sở để chứng minh hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã phạm vào tội “tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ...

b) …

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam”.

Vận dụng điều luật nêu trên, đối chiếu với hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy: Về tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo là người có đầy đủ khả năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi để biết được rằng, vận chuyển, tàng trữ pháo nổ loại hàng cấm dưới mọi hình thức là xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, mọi hành vi vi phạm đều bị pháp luật trừng trị. Song, xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, vì mục đích sử dụng cá nhân nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt sao cho thỏa đáng tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét trong quá trình lượng hình đối với bị cáo, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

Từ những phân tích, nhận định trên, xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời giao về cho chính quyền địa phương nơi cư trú kết hợp cùng gia đình quản lý trong thời gian thử thách là đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 235 (hai trăm ba mươi lăm) quả pháo hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy máu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh, tổng khối lượng là 8,6kg (mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong thùng giấy catton) là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) xe môtô biển số 47F1-166.39, loại xe Dream, số máy 370004706, số khung 71004706, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 015884 mang tên Thạch Hữu A do Công an huyện E cấp ngày 28/9/2013 là tài sản chung của bị cáo Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị TH, đây là công cụ, phương tiện do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe là 1.500.000đ và đồng thời trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho bà Nguyễn Thị TH.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, model 1034, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội: “Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

[1]. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S 08 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 năm 04 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn S về cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện E, tỉnh Đ để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo Nguyễn Văn S có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án.

[2]. Về xử lý vật chứng: Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 235 (hai trăm ba mươi lăm) vật hình bóng điện tròn dài 6,5cm, đầu hình cầu có đường kính 4,5cm bọc giấy màu nâu, đầu hình trụ có đường kính 2,5cm, dài 2,5cm bọc giấy máu vàng được liên kết với sợi dây màu xanh, tổng khối lượng là 8,6kg (mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong thùng giấy catton).

- Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước 1.500.000 đồng đối với bị cáo Nguyễn Văn S là trị giá ½ xe môtô biển số 47F1-166.39, loại xe Dream, số máy 370004706, số khung 71004706, đã qua sử dụng do bị cáo dùng vào việc phạm tội

- Trả lại 01 (một) xe môtô biển số 47F1-166.39, loại xe Dream, số máy VLFIP50FMG 370004706, số khung RL8DCG1DL 71004706, đã qua sử dụng và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số 015884 mang tên Thạch Hữu A do Công an huyện Ea Kar cấp ngày 28/9/2013 cho bà Nguyễn Thị TH và bị cáo Nguyễn Văn S (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/07/2019).

- Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, model 1034 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Văn S.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Quyền kháng cáo:

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về