TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2019/QĐHPT ngày 13/3/2019 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 40/TB-TA ngày 03/4/2019 đối với bị cáo:
Trương Công Ch, sinh năm 1989 Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Tiến Phú, xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: buôn bán điện thoại; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T (chết) và bà Huỳnh Thị Tuyết A. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17 tháng 01 năm 2019 và có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo:
1/ Ông Nguyễn Văn Thao – Luật sư, Văn phòng Luật sư Trung Tín – Đoàn luật sư Tỉnh Bình Thuận (có mặt).
2/ Ông Nguyễn Trung Tín – Luật sư, Văn phòng Luật sư Trung Tín – Đoàn luật sư Tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978 (có mặt)
Nơi cư trú: Khu phố 10, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Quốc H, sinh năm 1986 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Thôn Tiến Phú, xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 25/8/2018, sau khi đi chơi với bạn ở Mũi Né, thành phố Phan Thiết về, Trương Công Ch (sinh năm 1989, trú tại thôn Tiến Phú, xã tiến Lợi, thành phố Phan Thiết) điều khiển xe mô tô hiệu SH Mode biển kiểm soát 86C1- 668.85 chạy trên đường Yersin thuộc khu phố 8, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết thì phát hiện một người phụ nữ (bà Nguyễn Thị H sinh năm 1978, trú tại khu phố 10, phường Phú Trinh, thành phố Phan Thiết) đang dựng xe mô tô để mua trái cây ở gần vỉa hè, túi quần bên trái của bà H có bọc một chiếc điện thoại thoại hiệu Oppo màu đỏ bị trồi một nửa ra ngoài thì Ch nảy sinh ý định chiếm đoạt. Ch điều khiển xe mô tô áp sát bên trái chị H và dùng tay trái giật chiếc điện thoại, bỏ vào túi quần rồi nhanh chóng tăng ga xe tẩu thoát. Khi bị giật tài sản, bà H phát hiện, nhìn theo thì thấy rõ đặc điểm phương tiện mà Ch sử dụng để cướp giật tài sản nên đã đến Công an phường Phú Trinh trình báo sự việc.
Sau khi giật được điện thoại của bà H, Ch mang về tiệm điện thoại di động của mình tại số 226 đường Trần Quý Cáp, xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết để chạy lại chương trình rồi cất vào tủ trong tiệm.
Sau khi biết hành vi của mình bị phát hiện, Trương Công Ch tự nguyện đến Công an xã Tiến Lợi khai nhận hành vi và giao nộp lại tài sản, phương tiện phạm tội gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 869604033123133 và 01 chiếc xe mô tô hiệu SH Mode biển kiểm soát 86C1-668.85, số khung: 5142GY013037, số máy: JF51E0548708.
Kết luận định giá tài sản số 159 ngày 31/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phan Thiết trong tố tụng hình sự kết luận: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 869604033123133 có giá trị là 6.276.600 đồng.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại điện thoại cho người bị hại. Sau khi nhận lại tài sản, bà H không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Xe mô tô hiệu SH Mode biển kiểm soát 86C1-668.85 mà Ch điều khiển khi thực hiện hành vi phạm tội là do ông Trương Quốc H (anh ruột của Ch) đứng tên sở hữu. Sáng ngày 25/8/2018, ông H cho Ch mượn xe để làm phương tiện đi lại và không biết việc Ch sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu. Sau khi nhận lại tài sản, ông H không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.
Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Công Ch đã bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận truy tố tại bản cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 25 tháng 10 năm 2018, về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu quan điểm xử lý và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Trương Công Ch từ 04 năm đến 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.
Ban đầu bị cáo Trương Công Ch thừa nhận hành vi của mình như trên. Tuy nhiên, sau đó Ch khai hành vi của Ch là lén lút chiếm đoạt tài sản, là phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” chứ không phải tội “Cướp giật tài sản”.
Tại phiên tòa, bị cáo không thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo là phạm vào tội ‘Trộm cắp tài sản”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện tương đối đầy đủ và đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết có một số vi phạm như:
- Ngày 30/8/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết có Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 3492 đối với Trương Công Ch nhưng không thông báo về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho chính quyền nơi bị cáo cư trú và không có giấy cam đoan của bị cáo về việc thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Không giao Kết luận định giá tài sản cho bị cáo, bị hại là vi phạm quy định tại Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc bị hại được thông báo kết quả điều tra theo điểm đ khoản 02 Điều 62, khoản 4 Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu; bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo là lén lút chiếm đoạt tài sản nên phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” chứ không phải “Cướp giật tài sản”. Tuy nhiên hồ sơ ban đầu thể hiện:
- Tại Biên bản tạm giữ tang vật do công an xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết lập hồi 12 giờ 50 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018, bị cáo trình bày: “điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ, cảm ứng trên là do tôi (Ch) giật của một người phụ nữ ở đường Yersin vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018 nay tôi tự nguyện giao nộp cho cơ quan Công an”;
- Tại Biên bản ghi lời khai hồi 13 giờ 10 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018, của Công an xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết, bị cáo trình bày về hành vi của mình: “tôi liền chạy xe áp sát ngược chiều dùng tay trái giật chiếc điện thoại của người phụ nữ bỏ vào túi quần rồi chạy về hướng cầu đường Bà Triệu”;
- Tại Biên bản ghi lời khai hồi 15 giờ 05 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018, của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Phan Thiết, bị cáo trình bày về hành vi của mình: “Sau đó tôi điều khiển xe áp sát người phụ nữ...dùng tay trái giật chiếc điện thoại...nhanh chóng bỏ vào túi quần và điều khiển xe chạy về”;
- Tại Biên bản ghi lời khai hồi 08 giờ 00 phút ngày 27 tháng 8 năm 2018, của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Phan Thiết, bị cáo trình bày về hành vi của mình: “Lúc này tôi đang dừng bên trong lề đường từ Yersin về đường Bà Triệu còn người phụ nữ kia đang dừng xe theo hướng ngược lại. Tôi cho xe nổ máy, điều khiển xe chạy áp sát đến chỗ người phụ nữ đó rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại ngay túi quần của người phụ nữ đó”.
- Tại Biên bản ghi lời khai hồi 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 8 năm 2018, của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Phan Thiết, bị cáo trình bày về hành vi của mình: “Tôi dùng chiếc xe SH mode nêu trên chạy tới áp sát người phụ nữ rồi dùng tay trái giật chiếc điện thoại của người phụ nữ đang bỏ túi quần rồi tăng ga bỏ chạy”.
- Tại Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an phường Phú Trinh lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018 bà Nguyễn Thị H trình báo: “khi chị đang dừng xe mua đồ tại chợ Gò trên đường Yersin thuộc khu phố 8 phường Phú Trinh thì chị bị 1 thanh niên điều khiển xe Honda SH biển kiểm soát 66885 áp sát giật một cái điện thoại hiệu Oppo chị đang bọc trong túi quần trái sau đó bỏ chạy”;
- Tại Biên bản vụ việc do Công an phường Phú Trinh lập hồi 10 giờ 40 phút ngày 25 tháng 8 năm 2018 bà Nguyễn Thị H khai: “Tôi đang đứng mua đồ tại khu vực chợ Gò trên đường Yersin...lúc này do tôi sơ hở nên có một tên thanh niên chạy xe máy áp sát và rút chiếc điện thoại của tôi sau đó rồ ga bỏ chạy về hướng ngã ba đường Yersin - Bà Triệu rồi mất tích. Lúc tôi bị giật cái điện thoại thì có quay lại nhìn theo thì thấy đối tượng mặc áo khoác màu xanh đen, điều khiển xe máy Honda SH biển kiểm soát 66885”;
- Tại Đơn trình báo về việc bị cướp giật tài sản” gởi Công an phường Phú Trinh bà Nguyễn Thị H trình bày: “Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 25/8/2018 tôi bị cướp giật một chiếc điện thoại hiệu Oppo trị giá 8.000.000 đồng. Đối tượng mặc áo khoác màu xanh, đi xe SH màu đỏ đen, biển kiểm soát 86C1 66885. Đối tượng đi từ hướng Hải Thượng Lãn Ông qua Yersin. Tôi đang đứng mua đồ thì đối tượng chạy xe ngang qua và giật điện thoại của tôi và chạy thẳng đường Yersin đến khu Lò Heo. Khi bị giật điện thoại tôi có la lên, những người buôn bán xung quanh có nhìn thấy đối tượng nhưng hắn chạy xe nên không ai đuổi kịp”.
Không có cơ sở xác định quá trình khai báo như trên bị cáo, bị hại là do bị mớm cung, bức cung hay dùng nhục hình. Những lời khai trên của bị cáo phù hợp với những lời khai báo cùng thời điểm của người bị hại và những người làm chứng trong quá trình điều tra bổ sung của Cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát.
Mặc dù tại phiên tòa, bị cáo và bị hại đều thay đổi lời khai theo hướng hành vi của bị cáo không cấu thành tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, những lời khai này không phù hợp với thực tế khách quan, có nhiều mâu thuẫn với lời khai ban đầu và thiếu logic nên không có cơ sở chấp nhận.
Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an của địa phương và gây tâm lý bất an trong nhân dân. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ở khu vực chợ, đây là nơi tập trung đông người mua bán nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức được chợ sẽ có nhiều người nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên thực hiện, không sợ người dân phát hiện điều này thể hiện tính liều lĩnh, xem thường pháp luật của bị cáo.
[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi biết hành vi của mình bị phát hiện, bị cáo đã tự nguyện đến cơ quan Công an trình diện và giao trả lại tài sản cho người bị hại; người bị hại đã có đơn bãi nại, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết đề nghị xử phạt bị cáo từ 4-5 năm tù. Xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã trả lại tài sản cho người bị hại do đó nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo cải thiện trở thành người có ích cho xã hội.
[5] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Trên cơ sở cân nhắc tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy rằng: Hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, cần phải xử lý và áp dụng chế tài nghiêm khắc để trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống tội phạm.
[6] Tại phiên tòa vị Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: hành vi phạm tội của bị cáo là lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác nên bị cáo chỉ phạm tội “trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “trộm cắp tài sản” và đề nghị xử phạt bị cáo từ 03-06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Xét đề nghị này của vị Luật sư, Hội đồng xét xử thấy: Luật sư cho rằng hành vi của bị cáo là trộm cắp tài sản là chưa đủ cơ sở chấp nhận bởi lẽ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ở nơi đông người cụ thể là chợ, nơi tập trung nhiều người mua bán, qua lại bị cáo công nhiên thực hiện hành vi bằng cách áp sát người phụ nữ, giật chiếc điện thoại trong túi quần người phụ nữ này và nhanh chóng tẩu thoát, sự việc diễn ra một cách nhanh chóng khoảng chừng 01 phút, những người dân mua bán xung quanh đều phát hiện và tri hô cướp cướp. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “cướp giật tài sản”. Nên không thể chấp nhận lời đề nghị của vị Luật sư.
[7] Về vật chứng của vụ án Cơ quan quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại cho bị hại bà Nguyễn Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Quốc H. Các đương sự không khiếu nại, yêu cầu gì thêm Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về bồi thường dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sau khi nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trương Công Ch phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trương Công Ch 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (17 tháng 01 năm 2019) nhưng được trừ vào thời giam tạm giữ từ ngày 25/8/2018 đến ngày 30/8/2018.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trương Công Ch phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai có mặt bị cáo, người bị hại, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/4/2019), người có quyền lợi nghĩa vụ liên có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 26/2019/HSST ngày 19/04/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 26/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về