Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 26/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 229/2018/TLST- HNGĐ ngày19/7/2018 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị A, sinh năm 1975.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn M (Hoàng Quan Thế M), sinh năm 1973. Cùng trú tại: Thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Tại phiên tòa, có mặt: Chị A, anh M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa, chị Trần Thị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị A và anh Hoàng Văn M (Hoàng Quan Thế M) tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 01/10/1992 tại UBND xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống cùng bố mẹ đẻ anh M tại xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình được 04 năm. Đến năm 1997, chị và anh M chuyển về thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình làm ăn sinh sống. Trong quá trình chung sống, anh chị thường xuyên va chạm, cãi chửi nhau. Nguyên nhân do tính tình không hợp, cuộc sống bất đồng quan điểm. Anh M đã nhiều lần bạo hành, đánh chị dẫn đến mâu thuẫn tình cảm ngày càng trở nên trầm trọng, không hạnh phúc. Chị đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Anh M thường xuyên không chịu lao động và bạo hành chị nhiều lần. Chị đã báo cáo trưởng thôn, chính quyền địa phương nhưng anh M không thay đổi, điều chỉnh. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng lên và cuộc sống hôn nhân không thẻ kéo dài thêm được. Vì vậy, chị làm đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn anh M theo quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị A và anh M có 02 con chung, các cháu đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai và tại phiên tòa anh Hoàng Văn M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh M và chị A tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn năm 1992 tại UBND xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống tại xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đến năm 1997, anh M và chị A chuyển về thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình làm ăn, sinh sống. Vợ chồng có 02 con chung. Cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống và anh có đánh vợ với lý do vợ chồng không hiểu nhau, cuộc sống không hòa thuận và thiếu trách nhiệm với nhau. Chị A có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh M không đồng ý với lý do anh còn tình cảm với chị A.

Về nuôi con chung: Anh M và chị A có 02 con chung, các cháu đã trưởng thành tự lập, anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Quan hệ pháp luật và thẩm quyền quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị A có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải là có căn cứ.

- Tại phiên tòa ngày 26/11/2018, chị Trần Thị A có mặt, anh Hoàng Văn M đã được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay (ngày 14/12/2018), chị A có mặt, anh M đã được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Hoàng Văn M.

[2].Về áp dụng pháp luật nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị A và anh Hoàng Văn M là tự nguyện, hợp pháp; có đăng ký kết hôn vào ngày 01/10/1992 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống tại xã Y, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đến năm 1997, vợ chồng chuyển đến sống tại thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình. Trong quá trình chung sống, anh M và chị A nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh M thường xuyên xúc phạm và bạo hành chị A, đã được trưởng thôn và chính quyền địa phương xác nhận. Chị Trần Thị A nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể đoàn tụ, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh M hành hạ và bạo hành chị A nhiều lần. Do vậy, chị A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hoàng Văn M. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, anh M xác định vợ chồng có mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh M có xúc phạm và bạo hành chị A nhưng anh không đồng ý ly hôn lý do anh M còn tình cảm với chị A.

Theo báo cáo của trưởng thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình nơi chị A và anh M cư trú, sinh sống thể hiện: Anh M và chị A kết hôn hợp pháp và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, Vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2013 phát sinh nhiều mâu thuẫn, xảy ra xô xát. Anh M có hành vi bạo hành chị A, chính quyền địa phương đã chứng kiến, can ngăn khuyên giải nhưng anh M không nhận thức được lỗi lầm, không thay đổi cách cư xử với chị A. Tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã trầm trọng, nguyên nhân do anh M thường xuyên uống rượu, không chịu lao động và không có trách nhiệm với vợ, gia đình.

Từ những căn cứ trên thể hiện tình trạng hôn nhân giữa anh Hoàng Văn M và Trần Thị A đã lâm vào mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trần Thị A xin ly hôn với anh Hoàng Văn M.

- Về nuôi con chung và chia tài sản: Chị A, anh M không yêu cầunên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị A về việc “Ly hôn” với anh Hoàng Văn M (Hoàng Quan Thế M).

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị A ly hôn anh Hoàng Văn M (Hoàng Quan Thế M).

2.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A chịu phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền trên được trừ vào số tiền chị A nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0000781 ngày 19 tháng 7 năm 2018.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Trần Thị A có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Văn M vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn

Số hiệu:26/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về