TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 261/2021/HS-ST NGÀY 26/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 146/2021/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: P; Sinh ngày 05/3/1998 tại tỉnh Quảng Nam;
Nơi cư trú: Thôn X, xã T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:
Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông V, sinh năm 1967, và con bà X, sinh năm 1969; Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 07/9/2020 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số: 146a/QĐ-UBND, trong thời hạn 03 tháng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Tiền án: 01 tiền án. Tại bản án số 05/2019/HSST ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 03/4/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Tại bản án số 190/2015/HSST ngày 25/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 28/8/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích.
Tại Quyết định số 99/QĐ-TA ngày 16/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với P, thời hạn 18 tháng.
Bị cáo bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 17/3/2021 đến ngày 10/5/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh.
Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người bị hại: Bà T– Sinh năm 1974 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Y, xã T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông T1 – Sinh năm 1990 (vắng mặt) Trú tại: Thôn X1, xã T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bà X– Sinh năm 1969 (vắng mặt) Trú tại: Thôn X, xã T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 26/8/2020, P điều khiển xe mô tô hiệu Lxmoto, biển số M chở anh T1, trú tại: Thôn X1, xã T, thành phố B đi đến quán cơm của chị T, ở địa chỉ: Thôn X1, xã T, thành phố B để ăn cơm. Tại đây, P phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Nokia TA-1063, màu đen, có ốp lưng màu đen hiệu Addidas của chị T đang sạc pin trên tủ lạnh nên đã lén lút trộm cắp. Sau đó, P điều khiển xe mô tô biển số M chở anh T1 đến quán cơm (chưa rõ địa chỉ) gần Bệnh viện đa khoa Thiện Hanh để ăn cơm. Trong lúc ăn cơm, P kể cho anh T1 biết P vừa trộm cắp được điện thoại Nokia TA-1063 của chị T để sử dụng. Còn chị T sau khi phát hiện mất điện thoại đã làm đơn trình báo gửi Công an xã T, thành phố B.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 285/KLĐG ngày 09/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, màu đen, số Imei: 353378095370550, mặt kính bị nứt ở góc dưới bên trái, đã qua sử dụng, trị giá 700.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 103/KL-HĐĐGTS ngày 28/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 ốp điện thoại bằng nhựa đen, mặt sau có dòng chữ Addidas, sử dụng cho điện thoại nhãn hiệu Nokia TA-1063, đã qua sử dụng, không còn giá trị.
Tại bản cáo trạng số: 184/CT-VKS-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo P về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Trong quá trình tham gia tố tụng tại các cơ quan tố tụng, bị cáo P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo P mức án từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.
Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, màu đen, số Imei: 353378095370550 cho chị T, là chủ sở hữu. Chị T đã nhận lại tài sản nêu trên.
Sau khi nhận lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, bị hại chị T không yêu cầu bị cáo P phải bồi thường gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
[2] Bị cáo P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy việc bị cáo P vắng mặt có lý do chính đáng, bị cáo đã có đầy đủ lời khai và việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục tiến hành phiên tòa theo điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo P tại cơ quan điều tra là đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên ngày 26/8/2020, tại quán cơm của chị T, địa chỉ: Thôn X1, xã T, thành phố B, P đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, màu đen, số Imei: 353378095370550 của chị T. Theo Kết luận định giá tài sản số 285/KLĐG ngày 09/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột trị giá chiếc điện thoại trên là 700.000 đồng. Bị cáo P có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích.
Hành vi của bị cáo P đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;"
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo biết được rằng tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều sẽ bị pháp luật trừng trị. Song do tham lam tư lợi, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo P nhân thân đã 02 lần bị xử phạt về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục vi phạm. Đây là yếu tố định tội đối với bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới phát huy được tác dụng giáo dục nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong đấu tranh chống tội phạm.
[5] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
[6] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, màu đen, số Imei: 353378095370550 cho chị T, là chủ sở hữu. Chị T đã nhận lại tài sản nêu trên và không yêu cầu bị cáo P phải bồi thường gì thêm.
[7] Đối với anh T1 là người được bị cáo P kể về việc trộm cắp điện thoại Nokia TA-1063, nhưng bị cáo P và T1 không có thỏa thuận, bàn bạc về việc trộm cắp tài sản; Tân không được hưởng lợi gì từ việc trộm cắp tài sản. Do đó, hành vi của T1 không đồng phạm với bị cáo P về tội trộm cắp tài sản, không cấu thành tội không tố giác tội phạm, nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với T1 là phù hợp.
Đối với hành vi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo P và T1 vào ngày 26/8/2020. Quá trình điều tra xác định: Bị cáo P đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định áp dục biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; T1 đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: Bị cáo P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo P 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời hạn đã bị tạm giam từ ngày 17/3/2021 đến ngày 10/5/2021.
[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1063, màu đen, số Imei: 353378095370550 cho chị T, là chủ sở hữu. Chị T đã nhận lại tài sản nêu trên và không yêu cầu bị cáo P phải bồi thường gì thêm.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo P phải chịu 200.000 đồng án phí HSST .
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 261/2021/HS-ST ngày 26/08/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 261/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về