TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 261/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27/11/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 266/2019/HSST ngày 15/11/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 265/2019/QĐXX-HS ngày 15/11/2019 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn D. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.
Sinh năm 1987. Tại Điện Biên
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 4, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: 12/12
Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1967. Con bà: Trần Thị L, sinh năm 1969. Vợ: Lường Thị L, sinh năm 1991, bị cáo có 01 con, sinh năm 2013 (con riêng của vợ). Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trần Thị L, sinh năm 1969. Trú tại: Đội 4, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 16/9/2019, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 89B1-006.15 đi từ nhà ở đội 4, xã N, huyện Đ đến đội 18 xã Th, huyện Đ mục đích tìm mua heroine về sử dụng. Khi đến nơi, D dừng xe tại vệ đường đội 18 rồi đi bộ vào nhà của Lò Thị D, sinh năm 1988, trú tại đội 18, xã Th, vào trong nhà, D gặp D và Trần Xuân C, sinh năm 1988, trú tại đội 4, xã N, huyện Đ và 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi (D không biết tên địa chỉ) ngồi tại bếp nhà D. D đã trao đổi và mua được của C 01 gói heroine được gói bằng nilon màu trắng, miệng gói được xoắn lại với giá 50.000đ. D cầm gói heroine vừa mua được bằng tay trái rồi đi ra chỗ để xe. Hồi 19 giờ ngày 16/9/2019, khi D vừa đi đến gần chiếc xe môtô biển kiểm soát 89B1-006.15 thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã Th phát hiện bắt quả tang thu giữ tại tay trái của D 01 gói Heronie cùng chiếc xe mô tô.
Ngoài ra D còn khai nhận ngày 13/9/2019 D cũng mua 01 gói Heroine của c với giá 50.000đ và đã sử dụng hết.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 16/9/2019 đã xác định: Số cục bột màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D có khối lượng là 0,3 gam, trích 0,08 gam gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 919/GĐ-PC09 ngày 26/9/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn D là chất ma túy loại Heroine. Không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định.
Tại bản cáo trạng số 260/CT-VKSĐB ngày 15/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí HSST
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn D một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Điện Biên, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Nguyễn Văn D là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 16/9/2019, Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 89B1-006.15 đi từ nhà ở đội 4, xã Noong Hẹt, huyện Đ đến đội 18 xã Th, huyện Đ mục đích tìm mua heroine về sử dụng. Khi đến nơi, Dũng dừng xe tại vệ đường đội 18 rồi đi bộ vào nhà của Lò Thị D, sinh năm 1988, trú tại đội 18, xã Th, vào trong nhà, D gặp D và Trần Xuân C, sinh năm 1988, trú tại đội 4, xã N, huyện Đ và 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi (D không biết tên địa chỉ) ngồi tại bếp nhà D. D đã trao đổi và mua được của C 01 gói heroine được gói bằng nilon màu trắng, miệng gói được xoắn lại với giá 50.000đ. D cầm gói heroine vừa mua được bằng tay trái rồi đi ra chỗ để xe. Hồi 19 giờ ngày 16/9/2019, khi D vừa đi đến gần chiếc xe môtô biển kiểm soát 89B1- 006.15 thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã T phát hiện bắt quả tang thu giữ tại tay trái của D 01 gói Heronie cùng chiếc xe mô tô.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,3 gam kết luận giám định là Heroine.
Ngoài ra D còn khai nhận ngày 13/9/2019 Dũng cũng mua 01 gói Heroine của C với giá 50.000đ và sử dụng hết. Cơ quan điều tra đã xác minh ở xã N, huyện Đ có người tên là Trần Xuân C tuy nhiên hiện C không có mặt tại địa phương nên chưa đủ cơ sở chứng minh c đã bán Heroine cho bị cáo.
Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,3 gam Heroine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự năm 2015.
Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:
Từ năm 12 tuổi cùng gia đình lên sinh sống và làm ăn tại xã N, huyện Đ Biên, bản thân học đến lớp 12/12. Năm 2019 kết hôn với Lường Thị L, bị cáo sử dụng ma túy từ tháng 3 năm 2019. Chưa có tiền án tiền sự trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy.
[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma túy. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bị cáo đã gặp tại nhà D khi mua Heroine của C, do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.
Bị cáo khai mua Heroine của Trần C tại bếp nhà D Cơ quan điều tra đã X minh ở đội 18, xã Th, huyện Đ có người tên là Lò Thị D, và tại đội 4, xã No có người tên Trần Xuân C, sinh năm 1988. Tuy nhiên hiện D và C đều không có mặt tại địa phương nên chưa đủ cơ sở để xác định C đã bán Heroine cho bị cáo và Lò Thị D có liên quan đến vụ án do vậy HĐXX không xem xét trong vụ án.
[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu hủy 0,3 gam Heroine đã trích 0,08 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 0,22 gam.
Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát 89B1- 006.15 đăng ký mang tên Nguyễn Mạnh T, là xe của bà Trần Thị L (mẹ đẻ của bị cáo) bị cáo mượn xe và đã dùng làm phương tiện phạm tội. Song bà L không biết việc D đem đi mua ma túy, đây là tài sản của bà L. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu ngày 10/10/2019. Tại phiên Tòa bà L cũng thừa nhận đã nhận lại xe và không có ý kiến gì thêm. HĐ XX chấp nhận.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 15 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (16/9/2019).
3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm c Khoản 1, Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
- Tịch thu tiêu hủy 0,3 gam heroine đã trích 0,08 gam gửi giám định không hoàn lại.(Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 20/11/2019).
4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Nguyên Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/11/2019).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể từ ngày tuyên án.
Bản án 261/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 261/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về