TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 260/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 284/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 317/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh T, sinh năm 1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số B, Ấp B, xã ĐT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh (đã chuyển nhà đi đâu không rõ từ năm 2000); nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Tuyết T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 04-8-2020, tạm giam ngày 10-8-2020 “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 06 giờ 40 phút ngày 04/8/2020, Đội Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Ma túy-Công an quận Bình Tân kết hợp cùng với Công an phường Bình Hưng Hòa B kiểm tra hành chính Phòng số H-Nhà nghỉ HT, số M, Đường Số A, phường BHH B, quận BT do Nguyễn Minh T thuê. Qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ từ trong túi quần phía trước bên phải của Tâm 01 gói nylon bên trong có 06 gói nylon chứa tinh thể không màu. Lúc này, T cho biết đó là ma túy loại “hàng đá” của Tâm để sử dụng nên đưa đến Công an phường Bình Hưng Hòa B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, T khai do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực Đường Số 7, Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, thuộc phường BHH B, quận BT mua số ma túy này của đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 1.000.000 đồng, sau đó cất vào trong túi quần phía trước bên phải và đến Nhà nghỉ HT thuê phòng để sử dụng ma túy nhưng chưa kịp sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ; riêng người bạn tên Đinh Lê Trí T khai, anh chỉ đến phòng của T thuê để ngủ nhờ qua đêm mà không biết hay liên quan gì đến số ma túy của T, lời khai này phù hợp với lời khai của Tâm nên không bị xử lý.
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Minh T khai nhận, do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực Đường Số 7, Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, thuộc phường BHH B, quận BT mua 06 gói ma túy loại “hàng đá” của người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 1.000.000 đồng rồi cất vào trong túi quần phía trước bên phải và đi đến Nhà nghỉ HT thuê phòng để ở và sử dụng ma túy nhưng chưa kịp sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ; riêng anh Đinh Lê Trí T chỉ đến đây ngủ nhờ mà không biết hay liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
Đồng thời, bị cáo không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã giám định và giải quyết vật chứng.
Bản cáo trạng số 284/CT-VKS ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Minh T đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7444g, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung; giao trả lại cho bị cáo số tiền 500.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy đã giám định và 01 hộp nhựa màu trắng.
Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 06 giờ 40 phút ngày 04/8/2020, tại Phòng số 201-Nhà nghỉ HT, số B, Đường Số A, phường BHH B, quận BT. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 01 gói nylon bên trong có 06 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an thành phố Hồ Chí Minh thì, “Tinh thể không màu trong 06 gói nylon (để trong 01 gói nylon) được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Nguyễn Văn (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7444g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định về hàm lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Đối với anh Đinh Lê Trí T, chỉ đến phòng của bị cáo thuê ngủ nhờ qua đêm mà anh không biết hay liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên anh T không bị xử lý là có căn cứ; riêng người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau là phù hợp.
[3] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo bằng một mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, số thuê bao 0937490195 của bị cáo, do có sử dụng liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Còn số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng của bị cáo, do không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần giao trả lại cho bị cáo. Riêng gói niêm phong, bên trong có 01 gói nylon chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Nguyễn Văn T (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng;
01 cái hộp nhựa màu trắng của bị cáo đựng ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[6] Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04-8-2020.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, số thuê bao 0937490195. Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Minh T số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng. Tịch thu tiêu hủy gồm: Gói niêm phong, bên trong có 01 gói nylon chứa 06 gói nylon chứa tinh thể không màu, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Minh T, Nguyễn Ngọc Tuấn (Điều tra viên), Nguyễn Văn T (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh; 01 cái hộp nhựa màu trắng.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK21/021TAM, ngày 16/10/2020; riêng số tiền 500.000 đồng đã được Công an quận Bình Tân gửi vào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam-Chi nhánh Bình Tân theo tài khoản số 3949.0.1021213.00000 ngày 24/8/2020)
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 260/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 260/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về