TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 260/2020/HSST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 271/2020/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 289/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Lê Văn S - Sinh năm:1992, Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm Đ, thôn Nam Đô, xã Đông Cao, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; Con ông: Lê Văn H, Con bà: Trần Thị T; gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ 2; Tiền án, tiền sự: không. Danh chỉ bản số 248 lập ngày 08/ 5/2020 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Bắt quả tang ngày 07/5/2020, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 15/5/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18h00’ ngày 07/05/2020, tổ công tác đội CSĐTTP về ma túy Công an quận Hai Bà Trưng đang làm nhiệm vụ tại trước số nhà 33 Bùi Thị Xuân, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội phát hiện Lê Văn S có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, S tự nguyện giao nộp 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có 05 (năm) viên nén màu xanh và 01 (một) túi nilon bên trong có các hạt tinh thể màu trắng. Tại chỗ S khai nhận là ma túy tổng hợp mang đi bán cho khách. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật và đưa S về trụ sở để điều tra làm rõ.
Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ của S 01 (một) điện thoại di động Iphone 6s Plus, 01 (một) điện thoại di động Samsung và số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng).
Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ của Lê Văn S.
Tại bản Kết luận giám định số 3622B/KLGĐ - PC09 ngày 15/05/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:
- Tinh thể màu trắng là ma túy loại ketamine, khối lượng 0,995gam;
- 05 viên nén màu xanh đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 1,749gam.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn S khai nhận: Khoảng 16h00’ ngày 07/05/2020 khi S đang ở nhà thì T sử dụng số điện thoại 0984705678 gọi vào số điện thoại 0367667334 nhờ S bán hộ ma túy, S đồng ý. Sau đó S và T gặp nhau tại khu vực thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, T đưa cho S 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có 05 (năm) viên nén màu xanh và 01 (một) túi nilon trong suốt, bên trong có các hạt tinh thể màu trắng cùng số điện thoại, địa chỉ người mua. T dặn S bán số ma túy trên với giá 6.300.000đ (Sáu triệu, ba trăm ngàn đồng) và trả công cho S số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng). S cất ma túy vào túi áo ngực bên phải phía trước đang mặc rồi đi taxi xuống Hà Nội để giao ma túy. Khoảng 18h cùng ngày, khi S đang đứng trước cửa số nhà 33 phố Bùi Thị Xuân, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị cơ quan công an kiểm tra và bắt giữ như trên.
Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với các số điện thoại 0984705678 của T, 036766734 của S , 034344289 của người mua ma túy. Kết quả:
Chủ thuê bao số 034344289 là anh Nguyễn Văn G, địa chỉ: L, xã V, huyện Sóc S, Hà Nội. Tại cơ quan điều tra anh G khai: khoảng đầu năm 2020 anh có đăng ký chính chủ sim điện thoại trên. Đến tháng 3 năm 2020 anh bị mất điện thoại, anh không thông báo cho nhà mạng để cắt số điện thoại trên, anh không biết ai đã sử dụng sim điện thoại trên.
Chủ thuê báo số điện thoại 0367667334 là Lê Văn S.
Chủ thuê báo số điện thoại 0984705678 là anh Dương Văn H, địa chỉ: Xã Đ, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Tại cơ quan điều tra anh H khai: Anh chưa bao giờ đăng ký số thuê bao trên, anh không biết ai đã sử dụng số điện thoại trên.
Do vậy cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với đối tượng T và đối tượng mua ma túy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone 6s Plus thu giữ của S là tài sản cá nhân của S, dùng để liên lạc mua bán ma túy. Còn 01 (một) điện thoại di động Samsung và số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng) không liên quan đến việc mua bán ma túy. Tại Bản cáo trạng số 255CT/VKS-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 đã truy tố bị cáo Lê Văn S về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lê Văn S như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Văn S với mức án từ 4 năm tù đến 5 năm tù.
Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.
Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm bên trong có chứa 1,749 gam ma túy loại MDMA và 0,995 gam ma túy loại Ketaminbên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lê Văn S.
- Tịch thu sung công quỹ 01 (một) điện thoại di động kiểu đang Iphone 6S Plus màu ghi – đen số IMEI: 353298071803814 đã qua sử dụng, không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại) vì liên quan đến hành vi phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen số IMEI 1: 355228085391330, số IMEI 2: 355229085391338 đã qua sử dụng không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại) và số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng) vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hà Nội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 18h00’ ngày 07/05/2020, tại khu vực trước cửa số nhà 33, phố Bùi Thị Xuân, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Lê Văn S có hành vi bán trái phép 0,995 gam ma túy loại Ketamine và 1,749 gam túy loại MDMA.
Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Văn S đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
“Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Do đó viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo Lê Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.
[3]. Xét nhân thân của bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 (Năm triệu) đồng đến 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng”. Tuy nhiên, xét bị cáo Lê Văn S không có nghề nghiệp, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5].Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm bên trong có chứa 1,749 gam ma túy loại MDMA và 0,995 gam ma túy loại Ketamin bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lê Văn S.
- Tịch thu sung công quỹ 01 (một) điện thoại di động kiểu đang Iphone 6S Plus màu ghi – đen số IMEI: 353298071803814 đã qua sử dụng, không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại) vì liên quan đến hành vi phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen số IMEI 1: 355228085391330, số IMEI 2: 355229085391338 đã qua sử dụng không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại) và số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng) vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố : Bị cáo Lê Văn S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Văn S 4 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian từ ngày 07/05/2020 đến ngày 15/5/2020.
2. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
3.Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm bên trong có chứa 1,749 gam ma túy loại MDMA và 0,995 gam ma túy loại Ketamin bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Lê Văn S. - Tịch thu sung công quỹ 01 (một) điện thoại di động kiểu đang Iphone 6S Plus màu ghi – đen số IMEI: 353298071803814 đã qua sử dụng, không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại).
- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen số IMEI 1: 355228085391330, số IMEI 2: 355229085391338 đã qua sử dụng không rõ chất lượng (không kiểm tra dữ liệu bên trong điện thoại) và số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng).
Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 21 tháng 8 năm 2020 (TV:327/20) giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng và theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 39490104941500000 của Chi cục thi hành án dân sự Hai Bà Trưng tại Kho Bạc nhà nước Hai Bà Trưng ngày 21 tháng 8 năm 2020.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáophải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 260/2020/HSST ngày 14/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 260/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về