Bản án 258/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 258/2017/HSST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Mở phiên tòa công khai ngày 28 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phó Nha Trang để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 390/2017HSST ngay 29/11/2017 đối với bị cáo:

HUỲNH V.A; Sinh ngày: 28/03/1998; Đến ngày phạm tội bị cáo 17 tuổi 2 tháng 14 ngày; Nơi ĐKNKTT: xã X, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở hiện nay: xã X, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không; Văn hóa: 06/12; Cha: Huỳnh V. B, sinh năm 1968; Mẹ: Ngô T. X, sinh năm: 1969; Tiền sự: ngày 14/06/2013, chủ tịch UBND thành phố Nha Trang ban hành quyết định số 5626 về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh vì nghiện ma túy, chấp hành xong ngày 11/04/2015; Tiền án: không; Nhân thân: Bản án số 134/2016/HSST ngày 11/08/2016 của TAND tỉnh Khánh Hòa xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/02/2017; Bị cáo đang bị tạm giam trong một vụ án khác; Bị cáo có mặt tài phiên tòa.

Người bị hại:

Ông Phạm Quý T; Sinh năm: 1973; Địa chỉ: 22 Vân Đồn, phường X, thành phố  Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; Ông Quý T vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông La Đức T; Địa chỉ: 49/6A Ngô Gia Tự, phường Y, thành phố Nha Trang; Ông Đức T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 17 phút ngày 11/06/2015, Huỳnh V.A gặp một nam thanh niên tên N (chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ) ở khu vực Đồi Trại Thủy, phường Phương Sơn, thành phố Nha Trang, cả hai rủ nhau đi trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. A điều khiển xe máy biển số 79K4– 3758 chở N đi dạo trên các tuyến đường để tìm cơ hội trộm cắp. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi ngang qua nhà số 22 Vân Đồn, phường Phước Hòa, thành phố Nha Trang, thấy cửa mở nhưng không có người trông coi, nên A dừng xe đứng bên ngoài cảnh giới, để N đi vào trong nhà trộm 01 máy khoan hiệu Bosch GHB2-26DRE và 01 máy hàn điện loại nhỏ hiệu Legi LG 160 của anh Phạm Quý T mang ra ngoài xe máy để A chở đi tiêu thụ. Ngay lúc này tổ tuần tra Công an phường Phước Tân phát hiện bắt giữ A cùng vật chứng, còn N chạy thoát. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp là 5.336.000 đồng.

Đối với đối tượng N, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang hiện đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh V.A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Người bị hại là ông Phạm Quý T có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày đã nhận đủ tài sản bị trộm cắp nên không có ý kiến gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông La Đức T (người đứng tên chiếc xe máy biển số 79K4 – 3758 - đã bỏ địa phương đi chưa xác định được nơi ở hiện tại) vắng mặt tại phiên tòa nên các cơ quan tiến hành tố tụng chưa xác định được chính xác chủ sở hữu của chiếc xe này cũng như các yêu cầu của ông Thịnh về phần trách nhiệm dân sự.

Tại Cáo trạng số 298/CT-VKS ngày 29/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Huỳnh V.A về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Huỳnh V.A về tội trộm cắp tài sản, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 74 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh V.A mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù; về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì, tại phiên tòa vắng mặt nên phần bồi thường thiệt hại tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự nếu sau này người bị hại có yêu cầu; đối với vật chứng là chiếc xe máy biển số 79K4 - 3758 chưa xác định được chủ sở hữu nên giao cho cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ và xác minh làm rõ về nguồn gốc; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thấy hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi của bị cáo: do không có tiền để sử dụng ma túy, Huỳnh V.A đã cùng một nam thanh niên tên N (chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ) đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Khoảng 12 giờ 17 phút ngày 11/06/2015, bị cáo A đã sử dụng xe máy dạng Dream, biển số 79K4-3758 chở N đi trên các tuyến đường thành phố Nha Trang tìm nhà nào sơ hở thì trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà của anh Phạm Quý T, thấy cửa mở, A đứng ngoài cảnh giới, còn N vào nhà lấy trộm 01 máy khoan hiệu Bosch và 01 máy hàn điện loại nhỏ của anh Tân. Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 5.336.000 đồng. Như vậy, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ nhà, trong lúc trong nhà không có người trông coi, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản.  Hành vi của bị cáo Huỳnh V.A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ buộc tội của Viện Kiểm sát, phù hợp với lời khai của người bị hại, với tang vật và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân và làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo nghiện ma túy, có nhân thân xấu. Vào năm 2013, bị cáo đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện để chữa bệnh, vào tháng 8 năm 2016 bị cáo đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên, bị cáo không tu dưỡng, rèn luyện bản thân, gần đây lại hai lần bị khởi tố về hành vi “cướp giật tài sản”. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xét xử bị cáo mức án thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội khi đang ở tuổi vị thành niên, nhận thức pháp luật còn hạn chế, do đó Hội đồng xét xử áp dụng thêm nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đối với bị cáo theo Điều 69, Điều 74 Bộ luật Hình sự nhằm giúp đỡ, giáo dục bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, an tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Phạm Quý T có đơn xin xét xử vắng mặt và không có ý kiến gì đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông La Đức T vắng mặt tại phiên tòa. Do đó tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự nếu sau này người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu về bồi thường thiệt hại.

Về vật chứng:

- Đối với chiếc xe máy biển số 79K4 - 3758 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, bị cáo khai của N, nhưng qua kết quả xác minh chủ xe là ông La Đức T. Ông Thịnh bỏ địa phương đi không rõ địa chỉ nên hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu, do đó giao cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tạm giữ và điều tra xác minh làm rõ về nguồn gốc chiếc xe này theo quy định của pháp luật.

- Đối với các vật chứng khác là 01 máy khoan hiệu Bosch GHB2-26DRE và 01 máy hàn điện loại nhỏ hiệu Legi LG 160, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: bị cáo Huỳnh V.A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án: Bị cáo Huỳnh V.A phạm tội “Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khon 2 Điều 46; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với bị cáo Huỳnh V.A,

Xử phạt: bị cáo  Huỳnh V.A 01 (một) năm tù, thời hạn tù bắt đầu từ ngày bắt giam thi hành án

Về trách nhiệm dân sự: Tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khi người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu về bồi thường thiệt hại.

Về vật chứng: Giao cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tạm giữ chiếc xe máy biển số 79K4 - 3758 và điều tra xác minh làm rõ về nguồn gốc theo quy định của pháp luật.

Các vật chứng khác đã trả cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem  xét. thẩm.

Về án phí: Bị cáo Huỳnh V.A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người bị hại vắng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thười hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để đề nghị Tòa án câp trên xét xử lại theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 258/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:258/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về