TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 257/2021/HSPT NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 159/2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn S và đồng phạm về tội “ Đánh bạc và tổ chức đánh bạc”. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2020/HSST-CTN ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Các bị cáo kháng cáo:
1. Nguyễn Văn S: sinh ngày 30 tháng 10 năm 1974, tại thành phố P, tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa:
9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1925 và bà Nguyễn Thị M (đã chết); có vợ là bà Đặng Thị Nguyệt M, sinh năm 1978; có 02 người con, sinh năm 1997 và năm 2001; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/02/2020 đến ngày 25/3/2020, được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. (Có mặt).
2. Lê Thanh P (tên gọi khác: t); sinh năm 1977, tại thành phố P, tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12, dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Lê Văn L (đã chết) và bà Hồ Thị T, sinh năm 1947; có vợ là bà Lê Thị U, sinh năm 1975 (Đã ly hôn); có 02 người con, lớn sinh năm 1996 (Đã chết), nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 21/7/1999, bị Tòa án nhân dân TP P xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án số 46/HSST. Ngày 22/12/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm, xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 60/HSPT. Theo cung cấp của Chi cục Thi hành án dân sự TP P, bị can đã được đình chỉ thi hành phần dân sự, án phí trong Bản án số 46/HSST đã có hiệu lực pháp luật, riêng Bản án số 60/HSPT Chi cục Thi hành án dân sự TP P chưa nhận được Bị can chấp hành án phạt tù tại Trại giam Đ - Bộ Công an theo Bản án số 46/HSST. (Đã được xóa án tích). Bị bắt tạm giam từ ngày 28/5/2020 cho đến nay, vắng mặt.
3. Nguyễn Văn H (tên gọi khác: B), sinh năm 1964, tại tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: thành phố P, Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1925 và bà Nguyễn Thị M (đã chết); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/4/1986 bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai- Kon Tum xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Đánh bạc, tổ chức đánh bạc” (Đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/02/2020 đến ngày 18/7/2020, được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).
4. Lê Văn N, sinh ngày 09 tháng 10 năm 2003, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt N; con ông Lê Văn T, sinh năm 1976 và bà Trần Thị N, sinh năm 1978; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không.
Tiền sự: 02 tiền sự: Ngày 11/12/2019, bị Công an xã I, huyện C, Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh nhau; Ngày 18/02/2020, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác (Đã nộp đủ tiền phạt).
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/02/2020 đến ngày 21/02/2020 được trả tự do. Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (vắng mặt).
5. Lê Đức H (tên gọi khác: T K, T H), sinh ngày 17 tháng 8 năm 1989, tại tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt N; con ông Lê Mạnh H, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; có vợ là bà Trần Thu T, sinh năm 1991; bị cáo có 04 người con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 24/01/2019, bị can bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai khởi tố bị can về hành vi “Bắt giữ người trái pháp luật”. Hiện vụ án chưa được xét xử. Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lê Văn N: Bà Trần Thị N, sinh năm 1978; đại chỉ: tỉnh Gia Lai (vắng mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn N: Ông Thiều Hữu M – Trợ giúp viên pháp lý của T tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gia Lai. (vắng mặt).
* Trong vụ án này còn có Lê Thị Thu H và Nguyễn Thị H bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tổ chức đánh bạc”nhưng không có kháng cáo kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 01/2020, Nguyễn Văn S thuê đất của ông Nguyễn H V (sinh năm: 1957; trú tại Thôn Khối Z, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai) trong khu du lịch sinh thái H V thuộc Thôn Khối Z, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai (ngày 20/01/2020 hai bên mới ký hợp đồng) để xây dựng trường đá gà với mục đích cho khách đến tham gia đánh bạc dưới hình thức đá gà ăn tiền để thu tiền xâu.
Sau đó, Nguyễn Văn S đã xây dựng trường gà trên diện tích khoảng 400m2, có mái che, hàng rào lưới B40 xung quanh, bên trong gồm 2 di gà (nơi cho gà đá nhau) hình tròn, di gà bên trái từ cổng vào đường kính khoảng 06m (di gà số 1), di gà bên phải đường kính khoảng 05 m (di gà số 2), bên trên có lắp đặt hệ thống quạt gió, 02 chuông điện để báo hết giờ khi đá gà, bảng ghi, đồng hồ treo tường để tính giờ, cân để cân khối lượng gà; in các tập phiếu gồm 03 liên, có nhiều màu khác nhau để sử dụng khi ghi phiếu đặt cược; in các tờ phơi lớn (khổ giấy A1) có in số từ 01 đến 108 ở 02 mặt để tổng hợp mức cược của từng người chơi; các thẻ số từ 01 đến 108 để phát cho người đến tham gia đặt cược trong trường gà.
Nguyễn Văn S tổ chức cho người chơi đem gà đến đá (chọi) nhau, cho mọi người tham gia cá cược thắng thua bằng tiền và tự quy định thu 100.000đ (một trăm ngàn đồng)/01 trận đối với chủ gà thắng, khách đến tham gia đặt cược thu 5% trên tổng số tiền thắng cược, không thu tiền xâu người thua. Trường gà hoạt động vào thứ ba và thứ năm hàng tuần, bắt đầu từ ngày 14/01/2020, sau đó nghỉ Tết Nguyên Đán từ ngày 15/01/2020, đến ngày 28/01/2020 thì hoạt động lại. Nguyễn Văn S thuê Nguyễn Văn H (là anh ruột của S), Lê Thanh P (tên thường gọi là t), Lê Văn N và các đối tượng N, A (chưa rõ lai lịch) để phục vụ trong trường gà (H, N, A làm từ khi trường gà bắt đầu hoạt động, P và N làm từ ngày 18/02/2020). Nguyễn Văn S quản lý chung và giao việc cho H, N, P, N, A để tổ chức đá gà, cụ thể: Nguyễn Văn S quản lý chung và phụ trách việc ghi tờ phơi lớn, thu, chi tiền cho người chơi. N và A phát thẻ số cho người đến tham gia cá cược, ghi mức cược vào tập phiếu gồm 03 liên. Lê Thanh P phụ giúp S ghi tờ phơi lớn, tính toán tiền thắng, thua cho người chơi và tiền xâu để S thu, chi. Nguyễn Văn H phụ giúp S cân gà và quét dọn, làm các công việc lặt vặt. Lê Văn N dọn dẹp, bấm chuông báo giờ.
Hình thức đánh bạc như sau: Khi người chơi đem gà đến, S và H đem gà ra cân, cáp độ để 02 con gà tương đồng về cân nặng đá với nhau, hai con gà sẽ được quấn băng keo màu đỏ (gọi là gà đỏ) và màu xanh (gọi là gà xanh) ở chân để phân biệt, mỗi trận đá gà gồm nhiều hiệp (hồ), mỗi hiệp kéo dài 20 phút. Khi hai con gà đá nhau thì mọi người bắt đầu tham gia đặt cược. Người chơi tự đưa ra số tiền để cược với nhau, một người có thể đặt 02 cửa là gà đỏ thắng hoặc gà xanh thắng. Khi hai người chơi thống nhất số tiền cược với nhau thì N và A ghi số tiền cược và số thẻ (mỗi người đến tham gia cá cược được phát một thẻ số hoặc tên người chơi đối với người quen) vào tập phiếu gồm 03 liên, 02 liên đưa cho 02 người cược với nhau còn 01 liên (cuống phiếu) đưa cho S và P để tổng hợp vào tờ phơi lớn. Mỗi số in trên tờ phơi trùng với số thẻ của người tham gia đặt cược để theo dõi, cược gà đỏ thì ghi vào mặt kí hiệu Đ (tức Đỏ, tùy theo thứ tự các trận sẽ ghi Đ1 tức Đỏ trận 1…), cược cho gà xanh thì ghi vào mặt kí hiệu X (tức Xanh, tùy theo thứ tự các trận sẽ ghi X1 tức Xanh trận 1…), số tiền cược ghi dưới vị trí số thẻ của người chơi. N và A ghi như thế nào thì S và P cũng ghi tên người chơi như vậy vào tờ phơi lớn để đối chiếu. Sau khi kết thúc trận đá gà, người chơi mang phiếu được N và A giao đến bàn chỗ S và P để đối chiếu, người thua trả tiền, còn người thắng nhận tiền sau khi đã trừ tiền xâu là 5% trên tổng số tiền thắng. Ai chưa nhận hoặc chưa trả thì ghi vào góc tờ phơi lớn để ghi nhớ. Ngoài ra, người chơi sau khi cá cược với nhau nếu không muốn cược nữa thì có thể chuyển lần cược cho người khác nếu được sự đồng ý, cũng có trường hợp nhiều người chung tiền đặt cược chung một lần cược với nhau tùy người chơi tự thỏa thuận với nhau.
Ngoài ra, tại trường gà có Đặng Thị Nguyệt M (sinh năm 1968; trú tại Tổ 10, phường H Lư, TP P, tỉnh Gia Lai, là vợ của S) mở quán bán cơm cho người đến tham quan tại khu du lịch và người đến chơi tại trường gà; Trần Thu T (sinh năm 1991; trú tại Tổ 7, phường I, TP P, tỉnh Gia Lai) cùng chồng là Lê Đức H phụ việc bán cơm cùng với M; Nguyễn Thị H (là mẹ của H) thường đến chơi và thỉnh thoảng cũng phụ bán cơm khi đông khách; Lê Thị Thu H (em gái H) xin S cho bán nước trong trường gà từ ngày 18/02/2020 và đồng ý phụ giúp cho S việc thu, chi tiền thắng, thua khi rảnh rỗi.
Khoảng 08 giờ ngày 20/02/2020, Nguyễn Văn S, Lê Thanh P, Nguyễn Văn H, Lê Văn N, N và A đến trường gà trong khu du lịch sinh thái H V để tổ chức đá gà ăn tiền. Khi các con bạc đem gà đến, S và H đem gà ra cân và cáp độ cho 06 cập gà đá với nhau trong 06 trận: Trận đầu tiên giữa gà của người tên “U” đá với gà của người tên “H”, trận thứ 2 giữa gà của một người không rõ lai lịch với gà của “T” (tuy nhiên sau đó T và người này hủy kèo không cho gà đá với nhau nữa); trận thứ 3 giữa gà của “Q” đá với gà của “B”; trận thứ 4 là gà của “L” đá với gà của “H”; trận thứ 5 là gà của “V” với gà của “Q5” (tức Quân 5); trận thứ 6 là gà của “L” đá với gà của “L” (những người đem gà đến đá chưa xác định được nhân thân lai lịch).
Khoảng 09 giờ cùng ngày, trận đầu tiên bắt đầu giữa gà của “U” và gà của “H” tại di gà số 1, gà của “U” quấn băng keo màu đỏ ở chân (gà đỏ), gà của “H” quấn băng keo màu xanh ở chân (gà xanh), “H” và “U” cược với nhau số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng). Khi hai con gà đá nhau thì mọi người bắt đầu tham gia đặt cược, có khoảng 60 - 70 người có mặt tại trường gà (một số được phát thẻ số đeo ở cổ, một số người quen thì không cần phát thẻ).
Khi gà của “U” và gà của “H” đá được 02 hiệp khoảng 40 phút thì gà của “H” thắng, gà của “U” thua. “U” trả cho “H” 1.000.000đ (một triệu đồng) nhưng “H” cho lại “U” 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). “H” trả cho Nguyễn Văn S 100.000đ (một trăm ngàn đồng) tiền xâu. Sau đó những người tham gia đặt cược thắng và thua đến gặp S và P để trả tiền thua cược hoặc nhận nhận tiền thắng cược (sau khi trừ 5% tiền xâu). Trong trận đá gà này tờ phơi tổng ký hiệu X1- Đ1, có tổng cộng 64 người tham gia đánh bạc (bao gồm cả Nguyễn Văn S và 02 chủ gà “U”, “H”). Tổng số tiền đánh bạc của người tham gia đánh bạc là 814.650.000đ (tám trăm mười bốn triệu, sáu trăm năm mươi ngàn đồng),( gồm: Tiền cược + tiền thắng cược = Tiền dùng vào việc đánh bạc). Nguyễn Văn S thu xâu được số tiền 5.745.000đ (năm triệu bảy trăm bốn mươi lăm ngàn đồng), xác định được những người tham gia đánh bạc, gồm:
Nguyễn Văn S đặt cược 09 lần, 05 lần đặt cược cho gà đỏ với tổng số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng), 04 lần đặt cược cho gà xanh với tổng số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng), S thắng được số tiền 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng). Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Nguyễn Văn S là (6.000.000đ + 15.000.000đ + 14.000.000 = 35.000.000đồng) Võ C đeo thẻ số 90 đặt cược 04 lần, 02 lần đặt cược cho gà đỏ với tiền 1.300.000đồng và 02 lần đặt cược cho gà xanh với tiền 1.800.000đồng, C thắng được số tiền 1.700.000 đồng. Tổng số tiền đánh bạc của Võ C là 4.800.000đồng. Nguyễn Văn H tham gia cược gà đỏ 01 lần số tiền 2.000.000đồng, H thua 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Lê Đức H (ký hiệu “T H” ở mặt Đ1, “T K” ở mặt X1) tham gia đặt cược 09 lần, 04 lần cho gà đỏ với tổng số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), 05 lần cho gà xanh với tổng số tiền 21.500.000đ (hai mươi mốt triệu năm trăm ngàn đồng), thắng số tiền 32.000.000đ (ba mươi hai triệu đồng). Tuy nhiên, H cho 02 người theo cược chưa rõ nhân thân, lai lịch, có ký hiệu trên tờ phơi “L P” theo cược 800.000đ (tám trăm ngàn đồng), “Th” theo cược 5.000.000đ (năm triệu đồng) trong lần cược 10.000.000đ (mười triệu đồng) ăn 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), tổng cộng tiền theo cược và tiền thắng của người theo cược là 16.600.000đ (mười sáu triệu sáu trăm ngàn đồng). Do đó, tổng số tiền H tham gia đánh bạc là 45.900.000đ (bốn mươi lăm triệu chín trăm ngàn đồng).
Khoảng 11 giờ cùng ngày, trận đá gà của hai người tên “L” và “H” bắt đầu ở di gà khác. Chủ gà cược với nhau 500.000đ (năm trăm ngàn đồng). Trận gà của “L” và “H” (chưa rõ gà xanh của L hay H) thì S và P ghi mức cược của người đặt cược vào tờ phơi tổng kí hiệu Đ2 - X2 ở hai mặt. Trận này đá được 2 hiệp (khoảng 40 phút)thì kết thúc, gà xanh thắng, gà đỏ thua. Sau đó những người tham gia đặt cược thắng và thua đến gặp S và P để trả tiền thua cược hoặc nhận nhận tiền thắng cược (sau khi trừ 5% tiền xâu). Nguyễn Văn S gọi Lê Thị Thu H đến phụ việc thu, chi tiền cho người chơi rồi bỏ đi ra ngoài. Khi đang đứng thu, chi thì H đi việc cá nhân nên nhờ mẹ ruột là Nguyễn Thị H thu, chi tiền thắng, thua cho người chơi. Nguyễn Thị H ngồi tại bàn thu tiền thua cược của khoảng 05 người được số tiền khoảng 2.900.000đ (hai triệu chín trăm ngàn đồng) thì H về tiếp tục thu, chi tiền cược. Trận này, có tổng cộng 55 người tham gia đặt cược (trong đó có Nguyễn Văn S và 02 chủ gà là “L” và “H”). Tổng số tiền đánh bạc của người tham gia đánh bạc là 385.000.000đ (ba trăm tám mươi lăm triệu đồng). Nguyễn Văn S thu xâu được số tiền 1.965.000đ (một triệu chín trăm sáu mươi lăm ngàn đồng). Xác định được những người tham gia đánh bạc, gồm:
Nguyễn Văn S đặt cược 06 lần, 01 lần cho gà đỏ số tiền 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng), 05 lần cho gà xanh số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), S thắng được số tiền 4.300.000đ (bốn triệu ba trăm ngàn đồng). Số tiền đánh bạc của Nguyễn Văn S là 14.900.000đồng.
Nguyễn Thế V đeo thẻ số 48 tham gia đặt cược 01 lần cho gà đỏ với số tiền 3.500.000 đồng ăn 10.000.000 đồng, V thua cược. Tiền đánh bạc của Nguyễn Thế V là 3.500.000 đồng. Đỗ Hữu P đeo thẻ số 33 tham gia đặt cược cho gà xanh với số tiền 1.000.000đồng ăn 100.000 đồng, P thắng cược số tiền 100.000 đồng. Tiền đánh bạc của Đỗ Hữu P là 1.100.000 đồng. Nguyễn Văn H (ký hiệu “C. bốn”) tham gia cược gà đỏ 01 lần số tiền 100.000đồng, H thua 100.000 đồng. Tiền đánh bạc của H là 100.000đồng.
Lê Đức H đặt cược gà đỏ 02 lần với tổng số tiền 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng), đặt cược cho gà xanh 03 lần với tổng số tiền 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng), thắng số tiền đặt cược gà xanh 14.500.000đ (mười bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Như vậy tổng số tiền H tham gia đánh bạc là: 400.000đ + 25.000.000 + 14.500.000đ = 39.900.000đ (ba mươi chín triệu, chín trăm ngàn đồng).
Cùng gần thời điểm trận đá gà của “L” và “H” bắt đầu thì trận đá gà của “Q” với gà của “B” cũng bắt đầu đá. Chủ gà cược với nhau 500.000đ (năm trăm ngàn đồng), tức chủ gà thua phải trả cho chủ gà thắng 500.000đ (năm trăm ngàn đồng). S và P ghi mức cược của người đặt cược vào tờ phơi lớn kí hiệu Đ3 - X3 ở hai mặt. Trận này có tổng cộng 37 người tham gia đặt cược (trong đó có Nguyễn Văn S và 02 chủ gà là “Q” và “B”). Tổng số tiền đánh bạc của người tham gia đánh bạc là 177.200.000đ (một trăm bảy mươi bảy triệu, hai trăm ngàn đồng). Trận đá gà chưa kết thúc thì bị bắt quả tang nên S chưa thu được tiền xâu. Xác định được những người tham gia đánh bạc, gồm:
Nguyễn Văn S đặt cược 01 lần cho gà xanh với số tiền 300.000 đồng.
Lê Quang T đeo thẻ số 10, tham gia đặt cược 02 lần cho gà xanh với số tiền 900.000đồng. Đỗ Hữu P đeo thẻ số 33, tham gia đặt cược 01 lần cho gà đỏ với số tiền 1.000.000 đồng. Võ C đeo thẻ số 90, tham gia đặt cược 02 lần cho gà đỏ với số tiền 3.000.000đồng.
Sau đó tiếp tục diễn ra trận gà của 02 người chưa rõ lai lịch (không rõ gà của ai trong các cặp gà còn lại), xác định được các đối tượng tham gia đánh bạc, gồm:
Trần Thanh H không đeo thẻ tham gia đặt cược 01 lần cho gà đỏ với số tiền 400.000đồng (chưa có người ghi phiếu cho H). Phạm Bá L đeo thẻ số 97, tham gia đặt cược 01 lần cho gà đỏ với số tiền 300.000đồng. Lê Công T không xác định đeo thẻ số bao nhiêu, tham gia đặt cược 01 lần cho gà xanh với số tiền 1.000.000 đồng. Hồ Văn A không đeo thẻ, tham gia đặt cược 01 lần cho gà đỏ với số tiền 2.000.000đồng. Trần Thanh H không xác định đeo thẻ số bao nhiêu, tham gia đặt cược 02 lần cho gà xanh với số tiền 3.200.000đồng.
Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi gà của “Q’ với gà của “B” và gà của 02 người chưa rõ lai lịch đang đá nhau chưa phân thắng, thua thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ bắt quả tang.
Vật chứng vụ án: Khi lập biên bản bắt bắt người có hành vi phạm tội quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Gia Lai đã thu giữ một số các đồ vật, tài sản:
Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2020/HSST- CTN ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
1. Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”.
Các bị cáo Lê Thanh P, Nguyễn Văn H, Lê Thị Thu H, Nguyễn Thị H và Lê Văn N phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Bị cáo Lê Đức H phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đối với tội “Tổ chức đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38, Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 02 (hai) năm tù đối với tội “Đánh bạc”.
Áp dụng điều 55 Bộ luật Hình sự về tổng hợp hình phạt. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đối với tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/2/2020 đến ngày 25/3/2020. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.2. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 58 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Thanh P 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt 28/5/2020.
2.3. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 58 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù;được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/2/2020 đến ngày 18/7/2020. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.4. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Văn N 09 (chín) tháng tù;được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/2/2020 đến ngày 21/02/2020. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Đức H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.6. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 17, Điều 35, Điều 54, Điều 58 Bộ luật hình sự;
2.7. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Điều 35; khoản 3 Điều 321; khoản 3 Điều 322 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng; Bị cáo Lê Đức H số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách nhà nước.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thu H 60.000.000 (Sáu mươi triệu) đồng; Bị cáo Nguyễn Thị H 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng, để sung ngân sách Nhà nước.
Bản án còn quyết định về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định các bị cáo và người đại diện hợp pháp cho bị cáo kháng cáo như sau:
* Nguyễn Văn S, Lê Đức H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
* Các bị cáo Lê Thanh P, Nguyễn Văn H, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
* Đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Văn N là bà Trần Thị N và bị cáo N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo N và đại diện hợp pháp cho bị cáo rút toàn bộ đơn kháng cáo, bị cáo Lê Thành P rút đơn kháng cáo.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 348, điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự sửa một phần Bản án sơ thẩm: Chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn S, Lê Đức H, không chấp nhận đơn kháng cáo của Nguyễn Văn H.
Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thành P, Lê Văn N và đại diện hợp pháp cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Việc rút đơn kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp cho bị cáo là tự nguyện; Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thành P, Lê Văn N và kháng cáo của bà Trần Thị N.
[1] Vào đầu tháng 01/2020, Nguyễn Văn S đã thuê đất của ông Nguyễn H V tại Khu du lịch sinh thái H V (thuộc thôn Khối Z, xã I, huyện C, Gia Lai), đầu tư xây dựng trường gà, mục đích ban đầu của bị cáo là tổ chức các trò chơi dân gian phục vụ tết N đán trong đó có trò chơi đá gà (Việc này bị cáo xin phép và được phép tổ chức). Tuy nhiên lợi dụng việc đá gà bị cáo đã thuê và giao cho Nguyễn Văn H, Lê Thanh P, Lê Văn N và các đối tượng N, A phụ giúp để tổ chức cho những người tham gia đánh bạc bằng hình thức đá gà cá cược ăn tiền để thu tiền xâu. Lê Thị Thu H và Nguyễn Thị H biết việc S tổ chức đá gà có cá cược được thua bằng tiền đã tham gia giúp S thu, chi tiền cá cược của những người tham gia đánh bạc.
Ngày 20/02/2020, Nguyễn Văn S cùng đồng phạm cá độ cho 06 cặp gà, từ khoảng 09 giờ đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, S đã tổ chức cho 03 cặp gà đá với nhau, trong đó:
Trận đá giữa gà của U với gà của H, tờ phơi tổng ký hiệu X1- Đ1, có 64 người tham gia đánh bạc (bao gồm cả Nguyễn Văn S và 02 chủ gà “U”, “H”) với tổng số tiền đánh bạc là 814.650.000 đồng, (Nguyễn Văn S tham gia đánh bạc với số tiền 35.000.000 đồng; Lê Đức H tham gia đánh bạc với số tiền 45.900.000 đồng). Nguyễn Văn S thu xâu được số tiền 5.745.000 đồng.
Trận đá giữa gà của L với gà của H, tờ phơi tổng ký hiệu X2-Đ2, có 55 người tham gia đánh bạc với tổng số tiền là 385.000.000 đồng (Nguyễn Văn S đánh bạc với số tiền 14.900.000 đồng; Lê Đức H đánh bạc với số tiền 39.900.000 đồng). Nguyễn Văn S thu xâu được số tiền 1.965.000 đồng.
Trận đá giữa gà của Q với gà của B, tờ phơi tổng ký hiệu X3-Đ3, có 37 người tham gia đánh bạc với tổng số tiền là 177.200.000đồng; 02 con gà đang đá với nhau chưa phân thắng thua thì bị bắt giữ.
Với những hành vi nêu trên các bị cáo: Nguyễn Văn S bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 322 và khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Lê Thanh P, Nguyễn Văn H, Lê Thị Thu H, Nguyễn Thị H và Lê Văn N bị xét xử về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lê Đức H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: Trong vụ án này hành vi phạm tội của từng bị cáo có sự khác nhau nên cần phải phân hóa vai trò để có mức hình phạt phù hợp với từng bị cáo. Bản án sơ thẩm đã xác định Nguyễn Văn S là người đã lợi dụng việc được phép tổ chức hoạt động các trò chơi dân gian để cá độ đá gà nên đã khởi xướng, rủ rê lôi kéo, xúi giục các bị cáo thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc, cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc.
Đối với các bị cáo Lê Thanh P, Nguyễn Văn H, và Lê Văn N đều giúp sức thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc. Đối với bị cáo Lê Đức H trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc.
Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội và vai trò của từng bị cáo, đồng thời áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự như “phạm tội nhiều lần” và xúi dục người chưa thành niên phạm tội, ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và nhân thân các bị cáo để xử phạt các bị cáo: Nguyễn Văn S 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đối với tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, bị cáo Lê Đức H 02 (hai) năm tù là phù hợp. Đối với bị cáo S và bị cáo H còn bị xử phạt hình phạt bổ sung là cần thiết.
Tại cấp phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn S và Lê Đức H có cung cấp thêm chứng cứ mới để xin giảm nhẹ hình phạt. Cụ thể, ngày 02 tháng 3 năm 2021 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bạc Liêu có văn bản số 78/CSMT xác nhận Nguyễn Văn S và Lê Đức H có công trong việc phát hiện tố giác tội phạm về ma túy đã được Công an tỉnh Bạc Liêu ghi nhận, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Lê Đức H và Nguyễn Văn S đã nộp khoản tiền phạt bổ sung là 20.200.000 đồng và 10.000.000 đồng; Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo S và H có tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm u khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, ngoài ra trong vụ án này bị cáo S và Nguyễn Văn H là 02 anh em đều bị phạt tù giam, bố các bị cáo là người hiện nay già yếu (96 tuổi) có công với nước, do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho 02 bị cáo H và S mức hình phạt khi quyết định vẫn đảm bảo trên mức khởi điểm của điều khoản áp dụng xử phạt. Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H xét thấy; Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 01 năm 06 tháng tù là thỏa đáng, tại cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới do vậy kháng cáo của bị cáo H không được chấp nhận.
[3]. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357, Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự:
Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thanh P, Lê Văn N và kháng cáo của đại diện hợp pháp cho bị cáo Lê Văn N là bà Trần Thị N.
Chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Văn S, Lê Đức H.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của Nguyễn Văn H.
Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2020/HSST-CTN ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
1. Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”.
Bị cáo Nguyễn Văn H, phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Bị cáo Lê Đức H phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đối với tội “Tổ chức đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38, Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù đối với tội “Đánh bạc”.
Áp dụng điều 55 Bộ luật Hình sự về tổng hợp hình phạt. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 03 (ba) năm 10 (mười) tháng tù đối với tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/2/2020 đến ngày 25/3/2020. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.2. Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 322; điểm s, khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 58 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/2/2020 đến ngày 18/7/2020. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Đức H 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.
2.4. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Điều 35; khoản 3 Điều 321; khoản 3 Điều 322 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng; Bị cáo Lê Đức H số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách nhà nước (các bị cáo đã nộp đủ).
3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 257/2021/HSPT ngày 16/06/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 257/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về