Bản án 257/2020/HS-PT ngày 26/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 257/2020/HS-PT NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 206/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Dương Hoàng P do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 26/2020/HS-ST ngày 17/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.

- B cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T; tên gọi khác: (không có); Giới tính: Nam; Sinh năm 1996, tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 495, ấp M, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: làm vườn; Trình độ học vấn: 7/12; Cha: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1969(chết); Mẹ: Thái Thị T2, sinh năm 1971; Anh chị em một: duy nhất bị cáo; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Đặc điểm nhân thân: Ngày 19/12/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phúc thẩm tuyên phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 26/8/2016 (đã xóa án tích); Bị bắt tạm giữ ngày 09/8/2019 đến ngày 15/8/2019 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

2. Họ và tên: Trần Dương Hoàng P; tên gọi khác: P Mập; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1997, tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở: ấp M, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Trần Anh H, sinh năm 1968; Mẹ: Nguyễn Thị Trúc Hl, sinh năm 1971; Anh chị em một: có 03 người, bị cáo là người thứ nhất; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc H2, sinh năm 1999; Con: bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không; Đặc điểm nhân thân: Ngày 31/12/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 01/12/2014(đã xóa án tích); Bắt tạm giữ ngày 15/10/2019 đến ngày 21/10/2019 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

Viện kiểm sát không kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T và Trần Dương Hoàng P là bạn bè và đều nghiện ma túy, để có tiền mua ma túy sử dụng nên T đi mua ma túy về sử dụng và bán lại cho các con nghiện khác kiếm lời, cụ thể như sau:

Vào khoảng tháng 03 năm 2019 Nguyễn Văn T đến Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy đá của một người thanh niên (không rõ họ tên và địa chỉ) về bán lại cho Bùi Thị Thu T2 tổng cộng 04 lần, mỗi lần 300.000 đồng thu lợi 1.200.000 đồng.

Vào cuối tháng 7/2019 T tiếp tục đến Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh mua 5.000.000 đồng ma túy đá về bán cho Triệu Phi H3 04 lần, trong đó 03 lần bán 100.000 đồng và 01 lần bán 200.000 đồng, thu lợi 500.000 đồng. Sau đó cả hai cùng sử dụng ma túy tại nhà T.

Ngày 06/8/2019 Trần Dương Hoàng P dẫn Lê Ngọc Bích T3 và Hoàng Hải D đến nhà của T để giới thiệu cho T bán ma túy cho T3 và D với số tiền 300.000 đồng.

Ngày 08/8/2019 T3 và D tiếp tục đến nhà T mua ma túy với số tiền 1.500.000 đồng, do bận công việc nên T kêu P ra chỉ nơi để ma túy mà T đã để trước đó cho T3 và D lấy ma túy và P lấy số tiền 1.500.000 đồng của T3 và D vào đưa lại cho T.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 09/8/2019, Nguyễn Văn T và Trần Dương Hoàng P đang sử dụng ma túy tại phòng ngủ của T thì bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Tháp kết hợp với Công an huyện Châu Thành bắt quả tang thì T đổ bỏ số ma túy còn lại lên nệm nhằm để phi tang. Ngoài ra còn có Mai Hoàng T4 trước đó cũng đã sử dụng ma túy và đang nằm ngủ trên võng ở nhà sau, khi thấy lực lượng Công an đến Trọng bỏ chạy thì cũng bị bắt giữ. Tang vật thu giữ gồm:

- Nhiều hạt tinh thể rắn màu trắng(nghi là ma túy) nằm rải rác trên nệm trong phòng ngủ của T (đã được niêm phong ghi số 01).

- 01 túi nylon màu trắng được hàn kín, loại nắp kẹp bên trong có nhiều tinh thể rắn màu trắng (nghi là ma túy) được để trong 01 cái hộp hình chữ nhật màu đỏ để trên nệm trong phòng ngũ của T (đã được niêm phong ghi số 02).

- 01 cân điện tử màu đen không rõ hiệu,06 ống nỏ thủy tinh.

- 02 điện thoại di động, trong đó: 01 điện thoại hiệu Iphone màu xám có gắn sim số 0344444528 và 01 điện thoại hiệu Oppo màu đen có gắn sim số 0939405935, tiền Việt Nam: 10.150.000 đồng.

- 02 còng số 8(01 còng có số hiệu E16-H14 và 01 còng ngón không số), 01 con dao bằng kim loại màu đen chiều dài phần lưỡi 39 cm, cán dài 13cm và 02 con dao bằng kim loại phần lưỡi màu trắng dài 15cm, cán dài 17cm.

- 05 phôi giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy, 05 giấy đăng ký xe mô tô, ô tô.

- 01 xe mô tô mang biển số 66S 1-030.05, loại xe Exciter màu cam bạc, không rõ số khung, số máy, 01 xe mô tô mang biển số 69F4-5092, loại xe Wave không có đồ mũ(dàn áo), không rõ số khung, số máy, 01 xe gán máy mang biển số 66SA-010.95, loại xe Sirius màu đỏ không có dáng tem xe, số máy RNB139FMB 000957, số khung 000957.

Thu giữ của Trần Dương Hoàng P 01 điện thoại hiệu Iphone màu xám có gắn sim số 0783873272 và số tiền 220.000đ, Mai Hoàng T4 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám có gắn sim số 0898345817 và số tiền 500.000đ.

Tại bản kết luận giám định số: 655/KL-KTHS ngày 13/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận:

-Tinh thể rắn mà Cơ quan Công an thu giữ trên nệm (đã được niêm phong ghi số 01) là chất ma túy, có khối lượng 3,474 gam, loại Methamphetamine(số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính Phủ).

- Tinh thể rắn chứa trong túi nylon dạng nắp kẹp một đầu được thu giữ trong 01 cái hộp hình chữ nhật màu đỏ để trên nệm (đã được niêm phong ghi số 02) là chất ma túy, có khối lượng 1,317 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 323 thuộc Danh mục II, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính Phủ).

Trong quá trình điều tra đã xem xét, xử lý các tang vật thu giữ theo đúng quy định pháp luật.

Tại bản án số 26/2020/HS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Dương Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 09/8/2019.

2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Trần Dương Hoàng P 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 15/10/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 17 tháng 6 năm 2020, các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Dương Hoàng P có đơn kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Tỉnh phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Dương Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Khi xem xét mức hình phạt, đã xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với tính chất, mức độ mà hành vi của các bị cáo gây ra. Sau khi án sơ thẩm tuyên, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo P tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo. Riêng bị cáo T cung cấp được tình tiết có ông ngoại và bà ngoại là người có công cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì, là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T từ 01 tháng tù đến 03 tháng tù. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Trần Dương Hoàng P.

Bị cáo không tranh luận. Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận giám định số 655/KL - KTHS ngày 13/8/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, vật chứng thu giữ và các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định như sau: Trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8/2019, Nguyễn Văn T và Trần Dương Hoàng P đã có hành vi nhiều lần bán ma túy cho những người nghiện, hưởng lợi số tiền 3.500.000 đồng. Trong đó T bán cho Bùi Thị Thu T2 04 lần với số tiền là 1.200.000 đồng, bán cho Triệu Phi H4 04 lần với số tiền 500.000 đồng, bán cho Lê Thị Bích T3 và Hoàng Hải D 02 lần với số tiền 1.800.000 đồng thông qua sự giới thiệu của P.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của các bị cáo là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và làm gia tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy trong xã hội, làm suy yếu giống nòi, mất đi nguồn lực lao động tạo ra của cải, vật chất cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, động cơ mục đích phạm tội nhằm thu lợi bất chính và có tiền sử dụng ma túy thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Hành vi của các bị cáo cần thiết phải bị cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để các bị cáo có thời gian cai nghiện, học tập cải tạo để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Văn T, Trần Dương Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là phù hợp đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, đã xem xét hết các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo P đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo, bị cáo T cung cấp được tình tiết mới là có ông ngoại và bà ngoại là người có công cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Đình chỉ xét xử hình sự phúc thẩm đối với bị cáo Trần Dương Hoàng P.

[6] Do kháng cáo của bị cáo Thiện được chấp nhận, bị cáo P rút kháng cáo nên các bị cáo T, P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357; Điều 342; Điều 348 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Đình chỉ xét xử hình sự phúc thẩm đối với bị cáo Trần Dương Hoàng P.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T mức án 08 (tám) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2019.

Đình chỉ xét xử hình sự phúc thẩm đối với bị cáo Trần Dương Hoàng P. Phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Trần Dương Hoàng P có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Về án phí:

Các bị cáo Nguyễn Văn T và Trần Dương Hoàng P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 257/2020/HS-PT ngày 26/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:257/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về