Bản án 256/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 256/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 299/2020/HSST, ngày 29/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3335/2020/QĐXXST-HS, ngày 01/7/2020 đối với các bị cáo:

Didonna Quoc A Philippe; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1992 tại Montreuil, France; Thường trú: Số 3, Villa De 1’Avocette, 77260 Chamigny, France; Chỗ ở: Lầu 8, phòng 12, chung cư Everrich Infinity, số 290 An Dương Vương, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh`; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Pháp; Con ông Didonna H và bà Nguyen Thi Hue L; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 06/01/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số: 02/2016/HSST.

Bị tạm giữ, tạm giam ngày: 15/6/2018 - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị Trúc G; Sinh năm: 1990 Thường trú: 56A Ấp 1, xã Z, Thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Chỗ ở: Lầu 8, phòng 12, chung cư Everrich Infinity, số 290 An Dương Vương, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh - Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Kế T (đã chết) - Đại diện theo pháp luật của ông Nguyễn Kế T:

Bà Nguyễn Ngọc T1; Sinh năm: 1970 Thường trú: Ấp 2, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.

Chỗ ở: Ấp 3, xã X, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Là mẹ của ông Nguyễn Kế T - Vắng mặt.

- Người bào chữa:

+ Ông Cồ Lê Huy là luật sư của Công ty luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Didonna Quoc A Philippe - Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Quang Vũ là luật sư của Công ty luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Didonna Quoc A Philippe - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ 35 phút, ngày 15/6/2018, tại tầng hầm để xe chung cư Everrich Infinity, số 290 An Dương Vương, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra Didonna Quoc A Philippe và Nguyễn Thị Trúc G phát hiện trong túi vải màu đỏ G đang cất giữ bên trong có 08 bịch nylon chứa chất bột màu trắng (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 761,59g loại Ketamine), nên tiến hành lập biên bản thu giữ.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Didonna Quoc A Philippe và Nguyễn Thị Trúc G tại Lầu 8, Phòng 12 chung cư Everrich Infinity, 290 An Dương Vương, Phường X, Quận Y, thu giữ 380.000.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Trúc G tại phòng 6B chung cư Ngọc Khánh, số 21-23 Nguyễn Biểu, Phường , Quận 5 thu giữ: trên tủ gỗ ở khu vực nhà bếp 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng (Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,7591g loại Ketamine); 01 hợp đồng thuê căn hộ L6-27.03 Chung cư Landmark6, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, quận Bình Thạnh, do Didonna Quoc A Philippe đứng tên thuê và một số giấy tờ, tài liệu có chữ ký Nguyễn Thị Trúc G ghi ngày 16/6/2018.

Tại Cơ quan điều tra Didonna Quoc A Philippe và Nguyễn Thị Trúc G khai nhận số ma túy trong túi vải màu đỏ là của Nguyễn Kế T, hiện T đang ở tại căn hộ số L6-10.09 Chung cư Landmark6, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, quận Bình Thạnh). Căn cứ vào lời khai của của Didonna Quoc A Philippe và Nguyễn Thị Trúc G. Lúc 05 giờ, ngày 16/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Kế T tại căn hộ số L6-10.09 Chung cư Landmark6, thu giữ:

- Tại phòng ngủ của Nguyễn Kế T phát hiện trong hộc tủ kệ ti vi 01 hộp giấy màu đen bên trong có: 6,5401 gam ma túy, loại Ketamine; 10,0314gam ma túy, loại Cocain; 4,6827 gam ma túy, loại MDMA; 01 khẩu súng bút màu trắng.

- Thu trên đầu tủ quần áo gồm: 01 bịch nylon chứa chất bột màu trắng, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2765g, loại Ketamine;

- Tại phòng ngủ thứ hai đối diện bếp phát hiện thu giữ trong tủ quần áo số tiền 258.000.000 đổng.

Lúc 10 giờ, ngày 16/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Kế T tại căn hộ A21.01, Lô A1.1 Chung cư Giai Việt, số 854-856 Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8 thu giữ:

01 hộ chiếu mang tên Nguyễn Kế T; 01 cuốn sổ màu đen; 01 hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới; 01 hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải và 01 hợp đồng tín dụng.

Căn cứ lời khai của Didonna Quoc A Philippe và hợp đồng thuê căn hộ L6- 27.03 Chung cư Landmark6, số 208 Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, quận Bình Thạnh do Didonna Quoc A Philippe đứng tên thuê cho T. Lúc 21 giờ 10 phút, ngày 17/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Kế T tại căn hộ L6-27.03 Chung cư Landmark6, thu giữ: 30.573,5615gam ma túy, loại MDMA và 219,96gam ma túy, loại Ketamine.

Tất cả số ma túy thu giữ đã được giám định, kết quả thể hiện tại các Bản kết luận giám định số: 1054/KLGĐ-H ngày 25/6/2018, 1057/KLGĐ-H ngày 22/6/2018, 1055/KLGĐ-H ngày 22/6/2018, 1064/KLGĐ-H ngày 26/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra xác định:

Didonna Quoc A Philippe quen với Nguyễn Kế T từ năm 2011 trong một lần đi chơi tại quán bar, đến năm 2015 Quoc A bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 3 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tháng 6/2017 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương Quoc A tiếp tục quan hệ với các đối tượng mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy. Đầu tháng 5/2018 T nhờ Quoc A đứng tên để thuê căn hộ tại Chung cư Landmark6, Quoc A đồng ý. Thông qua dịch vụ môi giới nhà ở T biết căn hộ L6-27.03 Chung cư Landmark6 đang cho thuê, T gọi điện cho Quoc A cùng Trúc G đóng vai là vợ chồng đến để thuê căn hộ trên. Vào ngày 6/5/2018, Quoc A cùng với T, khi đến gặp chủ căn hộ cho thuê là ông Trịnh Quốc H1 để làm hợp đồng thuê căn hộ L6- 27.03 Chung cư Landmark6, mọi thủ tục thuê căn hộ này đều do Quoc A là người đứng tên hợp đồng để thuê, nhưng sau đó T là người trực gặp tiếp ông H1 nhận bàn giao căn hộ để sử dụng. Ngày 17/5/2018, Quoc A về Pháp và trong khoảng thời gian này thì Nguyễn Thị Trúc G là vợ chưa cưới của Quoc A ở Việt Nam cho T mượn xe ô tô biển số 71A-047.05 sử dụng.

Đến ngày 11/6/2018, Quoc A quay trở lại Việt Nam, G nhờ T chở G ra sân bay đón Quoc A, sau đó G chở T về Chung cư Landmark6, Phường 22, quận Bình Thạnh và lấy lại xe ô tô. Đến chiều ngày 15/6/2018, T gọi điện thoại cho Quoc A nhờ kiểm tra dưới gầm ghế ngồi phía bên phụ xem có túi ma túy của T để quên ở đó hay không, Quoc A kiểm tra phát hiện túi vải màu đỏ dưới gầm ghế xe ô tô của mình và mở ra xem thì phát hiện bên trong túi có nhiều gói ma túy rồi thông báo cho T biết để đến lấy, nhưng do T đang bận xem đá bóng nên nhờ Quoc A cất giữ hộ cho T để sau khi T xem đá bóng xong sẽ đến chỗ ở của Quốc A lấy ma túy về. Quoc A cất giữ số ma túy này trên xe ô tô biển số 71A-047.05 và đi đón G ở đường Âu Dương Lân, Quận 8 về chung cư Everrich Infinity. Khi xe của Quoc A chở G vào hầm để xe của chung cư, Quoc A nói G cầm túi vải màu đỏ (bên trong có chứa ma túy) cùng với một số túi xách khác ra khỏi xe rồi cùng đi lên nhà thì bị kiểm tra phát hiện như đã nêu trên.

Lời khai của ông Trịnh Quốc H1 phù hợp với lời khai của Quoc A về việc cho Quoc A thuê nhà và T là người đến nhận nhà và tạo dấu vân tay chủ để mở khóa cửa nhà và sử dụng.

Lời khai của Nguyễn Thị Trúc G phù hợp với lời khai của Quoc A về mối quan hệ gia đình và quen biết với T thông qua Quoc A.

Ngày 08/6/2018 G cho T mượn xe ô tô biển số 71A-047.05 để sử dụng do xe của T bị hỏng. Đến chiều 11/6/2018, T lấy xe ô tô chở G đi đón Quoc A từ Pháp về ở sân bay Tân Sơn Nhất, sau đó G và Quoc A đưa T về chung cư Vinhomes, Phường 22, quận Bình Thạnh, còn G và Quoc A đi về chung cư Everrich Infinity. Ngày 15/6/2018, G đi chợ mua đồ cùng bạn tại đường Âu Dương Lân, Quận 8, sau đó G điện thoại cho Quoc A đến chở G về chung cư Everrich Infinity. Khi vào hầm để xe của chung cư, Quoc A xuống xe và nói G cầm túi vải màu đỏ (bên trong có chứa ma túy) cùng với một số ma túy khác đem lên nhà giúp cho Quoc A thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ điều tra thu thập được thể hiện trong Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Didonna Quoc A Philippe, lời khai của Quoc A Philippe trong các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của Nguyễn Thị Trúc G và Trịnh Quốc H1, nhận thấy có đủ cơ sở buộc Didonna Quoc A Philippe phải chịu trách nhiệm về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với 761,59gam Ketamine bị bắt quả tang và 4,7591 gam Ketamine cất giấu để sử dụng.

Bản cáo trạng số: 229/CTr-VKS-P1, ngày 29/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Bị cáo Didonna Quoc A Philippe về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá, tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm e khoản 4 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Didonna Quoc A Philippe từ 16 (mười sáu) năm tù đến 17 (mười bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Trong vụ án này bị cáo không hưởng lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Didonna Quoc A Philippe.

Về xử lý tang vật:

Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Quang Vũ bào chữa cho bị cáo Didonna Quoc A Philippe không tranh luận về phần tội danh và khung hình phạt. Tuy nhiên, luật sư cho rằng mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị để xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc. Ngày 11/6/2018 bị cáo từ Pháp về Việt Nam, chiều tối ngày 15/6/2018 thì Nguyễn Kế T gọi điện thoại cho bị cáo nhờ bị cáo kiểm tra dưới gần ghế ô tô biển số 71A-047.05 có ma túy của T để quên hay không, đến 20 giờ 35 phút cùng ngày thì bị cáo bị bắt quả tang.

Như vậy, bị cáo chỉ mới biết được ma túy của T cất giữ khoảng 60 phút thì bị bắt giữ. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ma túy chưa phát tán ra ngoài xã hội nên tác hại do ma túy gây ra đã được ngăn chặn kịp thời, bị cáo có quốc tịch Pháp nên trình độ hiểu biết pháp luật Việt Nam có phần hạn chế vì vậy dễ bị các đối tượng khác lợi dụng. Qua lời khai của bị cáo mà đã phát hiện và thu giữ hơn 30.000gam ma túy của Nguyễn Kế T.

Do đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Didonna Quoc A Philippe mức án thấp hơn mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Do luật sư thống nhất với tội danh và khung hình phạt nên đại diện Viện kiểm sát không tranh luận. Còn đối với mức hình phạt của bị cáo thì do Hội đồng xét xử quyết định.

Đại diện Viện kiểm sát và luật sư bảo lưu quan điểm của mình và không tranh luận gì thêm.

Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình và đồng ý với lời bào chữa của luật sư.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, luật sư Cồ Lê Huy, bà Nguyễn Thị Trúc G và bà Nguyễn Ngọc T1 có đơn xin xét xử vắng. Luật sư Huy đồng ý với quan điểm bào chữa của luật sư Nguyễn Quang Vũ, bà Nguyễn Thị Trúc G và bà Nguyễn Ngọc T1 có các lời khai thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Do đó, xét thấy sự vắng mặt của những người nêu trên không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa của luật sư Cồ Lê Huy, bà Nguyễn Thị Trúc G và bà Nguyễn Ngọc T1.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Didonna Quoc A Philippe khai nhận về hành vi phạm tội do bị cáo gây ra đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, vật chứng thu giữ và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định ... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Lúc 20 giờ 35 phút, ngày 15/6/2018, tại tầng hầm để xe chung cư Everrich Infinity, số 290 An Dương Vương, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Didonna Quoc A Philippe đang cất giấu ma túy cho Nguyễn Kế T. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Trúc G tại phòng 6B chung cư Ngọc Khánh, số 21-23 Nguyễn Biểu, Phường 1, Quận 5 thu giữ trên tủ gỗ ở khu vực nhà bếp 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy do Didonna Quoc A Philippe cất giữ để sử dụng. Hành vi của bị cáo Didonna Quoc A Philippe đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong vụ án này bị cáo Didonna Quoc A Philippe giúp sức cho Nguyễn Kế T tàng trữ trái phép ma túy có khối lượng 761,59g loại Ketamine bị thu giữ khi bắt quả tang (Kết quả giám định số: 1054/KLGĐ-H, ngày 25/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh) và 4,7591gam Ketamine thu giữ khi khám xét do Didonna Quoc A Philippe cất giấu để sử dụng (Kết quả giám định số: 1055/KLGĐ-H, ngày 22/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Tổng khối lượng ma túy bị cáo Didonna Quoc A Philippe phải chịu trách nhiệm hình sự là 766,3491g loại Ketamine.

Như vậy, hành vi của bị cáo Didonna Quoc A Philippe là tàng trữ “các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên” nên cần phải áp dụng điểm e khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của nhà nước Việt Nam về đấu trA phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi cuộc sống xã hội. Bị cáo biết rõ nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy và quy định trừng phạt nghiêm khắc với những ai cố tình vi phạm nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có một mức án tương xứng với mức độ, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo mới đạt được mục đích giáo dục và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khối lượng ma túy bị cáo cất giữ cho Nguyễn Kế T là 761,59g loại Ketamine nhưng số ma túy này bị cáo không được hưởng lợi và hành vi phạm tội của bị cáo một phần bị động vì ma túy đã được T cất giữ trên xe ô tô biển số 71A-047.05 trước đó (Ngày 11/6/2018 bị cáo từ Pháp về Việt Nam; chiều ngày 15/6/2018 T gọi điện thoại cho bị cáo nhờ kiểm tra ma túy mà T đã để quên trên xe ô tô; 20 giờ 30 phút ngày 15/6/2018 thì bị cáo bị bắt quả tang) để từ đó áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

 Riêng quan điểm bào chữa của luật sư về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự không được chấp nhận vì tình tiết này đã được áp dụng tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về quan điểm của bào chữa của luật sư đề nghị xử phạt bị cáo Didonna Quoc A Philippe dưới mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên được chấp nhận.

Bị cáo Didonna Quoc A Philippe có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo.

Trong vụ án này bị cáo không hưởng lợi nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Riêng đối với Nguyễn Kế T sau khi được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh mời về để phối hợp xác minh làm rõ mối quan hệ với Didonna Quoc A Philippe và Nguyễn Thị Trúc G, trong khi đang tiến hành khám xét nơi ở của T tại căn hộ A21.01, Lô A1.1 Chung cư Giai Việt thì T đã tự dùng dao đâm vào người để tự sát, sau đó được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, đến khoảng 01 giờ, ngày 18/6/2018 T đã tử vong nên không làm rõ được nguồn gốc số ma túy thu giữ tại 02 căn hộ L6-10.09 và L6- 27.03 Chung cư Landmark6.

Đối với 4,7591gam Ketamine thu giữ trên tủ gỗ ở khu vực nhà bếp tại phòng 6B chung cư Ngọc Khánh, số 21-23 Nguyễn Biểu, Phường 1, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Trúc G khai không biết là của ai vì nhà này Trúc G khai không còn ở đây nữa vì đã hết thời hạn hợp đồng thuê nhà. Quá trình điều tra bổ sung, Didonna Quoc A Philippe khai nhận mua số ma túy này để sử dụng và đã sử dụng một ít, số còn lại Quoc A cất giấu trên tủ bếp tại phòng 6B Chung cư Ngọc Khánh thì bị thu giữ khi khám xét nên không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thị Trúc G là phù hợp.

Đối với Nguyễn Thị Trúc G, khi bắt giữ thì G đang cầm túi xách màu đỏ (bên trong có ma túy) và làm rơi xuống đất ngay chỗ G đứng. Kết quả điều tra, G và Didonna Quoc A Philippe khai G không biết trước đó trên xe ôtô có chiếc túi xách này, khi xuống xe tại tầng hầm chung cư thì Quốc A có nhờ G cầm giúp túi xách màu đỏ cùng với các túi xách khác xuống xe để đi lên căn hộ. G không biết trên xe có túi ma túy và không biết trong túi màu đỏ (Didonna Quoc A Philippe nhờ cầm) có ma túy. Lời khai của Didonna Quoc A Philippe và G phù hợp với nhau, đồng thời do Nguyễn Kế T đã chết không lấy được lời khai nên không có cơ sở để xử lý đối với G trong vai trò đồng phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả tự do cho G là đúng quy định của pháp luật.

Về vật chứng của vụ án:

- Đối với toàn bộ ma túy thu giữ của các bị cáo và của Nguyễn Kế T là tang vật của vụ án và cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) túi vải màu đỏ thu giữ của Didonna Quoc A Philippe;

01 (một) đĩa thủy tinh, 01 (một) ống kim loại bằng đồng dài khoảng 15cm, 01 (một) thẻ nhựa có ghi chữ GUCCI, 01 (một) cuốn sổ màu đen, 01 (một) khuôn bằng kim loại, 01 (một) bộ dụng cụ kiềm, chày, mỏ lết bằng kim loại, 01 (một) hộp giấy màu đen bên trong có mỏ lết, dao, đinh, muỗng, 01 số ảnh thẻ 3x4cm và 34 (ba mươi bốn) hũ nhựa màu đỏ rỗng thu giữ của Nguyễn Kế T là những tang vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) máy dập có gắn mô tơ, 01 (một) máy ép nhựa hiệu IMPULSE SEALER, 01 (một) cân điện tử thu giữ của Nguyễn Kế T là những tang vật phục vụ cho việc tàng trữ ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi, màu đen Model MDG1 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi, màu đen Model MEG7 thu giữ của bị cáo Didonna Quoc A Philippe dùng để liên lạc trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 03 (ba) quần Jean, 02 (hai) áo sơmi màu đen, 01 (một) áo sơmi màu trắng, 01 (một) hợp đồng thuê căn hộ, 01 (một) hộ chiếu mang tên Nguyễn Kế T, 01 (một) hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải mang tên Nguyễn Kế T, 01 (một) hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới, 01 (một) hợp đồng tín dụng mang tên Nguyễn Kế T, 01 (một) túi da màu nâu đen, 01 (một) thẻ ATM AGRIBANK, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, đen và số tiền 258.000.000 đồng không liên quan hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bà Nguyễn Ngọc Thu (là đại diện theo pháp luật của ông Nguyễn Kế T).

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng; số tiền 380.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Trúc G không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử trả lại cho bà Nguyễn Thị Trúc G.

- Đối với 01 (một) xe ô tô biển số: 69A – 048.54 có số khung: RLMWF4CX4HV004531, số máy: 2749203125, tạm giữ của Nguyễn Kế T. Qua điều tra xác minh được biết xe này do Nguyễn Kế T là người đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 07/02/2018 Nguyễn Kế T đến Ngân hàng TM Cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) Chi nhánh quận 2 – phòng giao dịch Quận 9 làm thủ tục vay số tiền 800.000.000đ để mua xe ô tô và thế chấp chiếc xe ô tô biển số 69A – 048.54. Sau khi bị bắt, T tự sát, gia đình của T làm đơn xin nhận lại xe để bảo quản, sử dụng và Ngân hàng VIB cũng có Công văn đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra bàn giao xe cho Ngân hàng VIB hoặc người đại diện được Ngân hàng Ngân hàng VIB ủy quyền để nhận bàn giao xe để bảo quản, quản lý. Cơ quan điều tra làm thủ tục giao xe ô tô biển số 69A – 048.54 cho đại diện Ngân hàng VIB và gia đình của T quản lý là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với (một) xe ô tô biển số: 71A-047.05 có số khung: RLMWF4JX0HV004335, số máy: 274920-31198541 tạm giữ của Didonna Quoc A Philippe. Kết quả điều tra xác minh xe ô tô biển số 71A-047.05 là của Nguyễn Thị Trúc G (bạn gái Quoc A) là chủ sở hữu và đứng tên Chứng nhận đăng ký xe. Quá trình điều tra đến nay, có căn cứ xác định Didonna Quoc A Philippe sử dụng xe này cất giấu ma túy giúp cho T, còn G không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy cùng với Didonna Quoc A Philippe và có đơn xin nhận lại xe. Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe ô tô biển số 71A-047.05 cho bà Nguyễn Thị Trúc G quản lý sử dụng là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm e khoản 4 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Didonna Quoc A Philippe 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày: 15/6/2018.

- Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) máy dập có gắn mô tơ.

+ 01 (một) máy ép nhựa hiệu IMPULSE SEALER.

+ 01 (một) cân điện tử.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi, màu đen Model MDG1.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi, màu đen Model MEG7.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) túi vải màu đỏ.

+ 01 (một) đĩa thủy tinh.

+ 01 (một) ống kim loại bằng đồng dài khoảng 15cm.

+ 01 (một) thẻ nhựa có ghi chữ GUCCI.

+ 01 (một) cuốn sổ màu đen.

+ 01 (một) khuôn bằng kim loại.

+ 01 (một) bộ dụng cụ kiềm, chày, mỏ lết bằng kim loại.

+ 01 (một) hộp giấy màu đen bên trong có mỏ lết, dao, đinh, muỗng.

+ 01 (một) số ảnh thẻ 3x4cm.

+ 34 (ba mươi bốn) hũ nhựa màu đỏ rỗng.

+ 01 (một) hộp giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1054/18/PC47, có chữ ký niêm phong của Giám định viên Thượng úy Huỳnh Thanh Thảo và Cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng (bị ẩm ướt).

+ 01 (một) hộp giấy niêm phong, bên ngoài ghi ngày 6/9/2018, có chữ ký niêm phong của Giám định viên Vũ Quyết Thắng và Cán bộ điều tra Trần Xuân Thành, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định (bị ẩm ướt).

+ 01 (một) xô nhựa niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1064(2)/18 PC47, có chữ ký niêm phong của giám định viên Đại úy Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

+ 01 (một) hủ nhựa niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1064(3)/2018 PC47, có chữ ký niêm phong của giám định viên Đại úy Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

+ 04 (bốn) thùng giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1064(7)/18 PC47 (Thùng 1), (Thùng 4), (Thùng 5), (Thùng 6), có chữ niêm phong của giám định viên Đại úy Trần Đình Hải và Cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định (chảy nước, ẩm ướt).

+ 01 (một) gói giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1064 (7)/2018 PC47, có chữ ký của giám định viên Đại úy Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định (1 góc có chữ ký niêm phong của Trần Vĩnh Chiến).

+ 02 (hai) gói giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1057/18 (Gói 1), (Gói 2), có chữ ký của giám định viên Đại úy Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

+ 01 (một) gói niêm phong, ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Văn Triển, bên trong là nhiều gói nylon đã qua sử dụng (có chữ ký niêm phong của Trần Vĩnh Chiến).

+ 01 (một) gói giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1055/18, có chữ ký niêm phong của Giám định viên Thượng úy Huỳnh Thanh Thảo và Cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

Trả lại cho bà Nguyễn Ngọc T1 (là đại diện theo pháp luật của ông Nguyễn Kế T):

+ 03 (ba) quần Jean.

+ 02 (hai) áo sơmi màu đen.

+ 01 (một) áo sơmi màu trắng.

+ 01 (một) hợp đồng thuê căn hộ.

+ 01 (một) hộ chiếu mang tên Nguyễn Kế T.

+ 01 (một) hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải mang tên Nguyễn Kế T.

+ 01 (một) hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới.

+ 01 (một) hợp đồng tín dụng mang tên Nguyễn Kế T.

+ 01 (một) túi da màu nâu đen.

+ 01 (một) thẻ ATM AGRIBANK.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, đen (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, số imei ở khay sim:…49619, không sim).

+ Số tiền 258.000.000 (hai trăm năm mươi tám triệu) đồng.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị Trúc G:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, đen (không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, lưng bể, số imei ở khay sim:…993856).

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng (không pin, có số:…690/3).

+ Số tiền 380.000.000 (ba trăm tám mươi triệu) đồng.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2020/372, ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 13/7/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 18/6/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đại diện người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 256/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:256/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về