Bản án 256/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 256/2020/HS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 222/2020/HSST ngày 06/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 277/QĐXXST-HS ngày 31/8/2020 đối với bị cáo:

Phan Chí C, giới tính: Nam; sinh năm 1995; nơi sinh: tại thành phố Cần Thơ; thường trú: ấp A, xã B, huyện C, thành phố Cần Thơ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: phụ hồ; con ông Phan Thanh L và bà Nguyễn Thị Kiều L; tiền sự: không; tiền án: không; tạm giam từ ngày: 17/4/2020 (có mặt).

- Bị hại: Chị Phan Thị Thu N; Sinh năm 1977; Địa chỉ: A đường số B, khu phố C, phường D, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Chí C (Sinh năm: 1995) và chị Phan Thị Thu N (Sinh năm: 1977) có mối quan hệ cô, cháu. Khoảng 15 giờ ngày 28/8/2018, C gọi điện thoại cho chị N mượn chìa khóa phòng trọ của chị N để C vào tắm, chị N đồng ý và chỉ nơi cất chìa khóa cho C biết. Khoảng 10 giờ ngày 29/8/2018, C đến phòng trọ của chị N tại địa chỉ nhà số 85, đường 11, khu phố 4, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh và lấy chìa khóa (chị N cất bên trong cửa sổ) mở cửa vào trong phòng chị N tắm. Sau khi tắm xong, C nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của chị N nên C lén lút mở tủ đồ, lấy trộm 01 số tài sản gồm: 04 chiếc nhẫn vàng 18k loại 02 chỉ, 01 chiếc nhẫn vàng 18k loại 01 chỉ, 01 sợi dây chuyền vàng 18k rồi C khóa cửa phòng trọ bỏ đi. Sau khi trộm cắp, khoảng 17 giờ cùng ngày, C đón xe về huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang và bán 05 chiếc nhẫn vàng trộm cắp cho 01 tiệm vàng (không nhớ rõ địa chỉ cụ thể) với số tiền 29.000.000 đồng rồi đi về Thành phố Cần Thơ làm phụ hồ. Khoảng tháng 9/2018 C bán sợi dây chuyền vàng cho 01 tiệm vàng (không nhớ rõ địa chỉ cụ thể) tại Thành phố Biên Hòa với số tiền 4.500.000 đồng và tiêu xài hết số tiền trên.

Khoảng 16 giờ cùng ngày 29/8/2018, chị N về phòng trọ nhìn thấy đồ đạc bị lục tung, kiểm tra tài sản thì phát hiện bị mất tài sản nên chị N gọi điện thoại cho C thì C thừa nhận lấy trộm số tài sản trên và hứa sẽ trả lại cho chị N. Đến ngày 14/9/2018, do C không trả lại tài sản nên chị N đã đến Công an phường Linh Xuân, quận Thủ Đức trình báo.

Ngày 11/02/2020, Phan Chí C đã đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức làm việc và khai nhận hành vi như trên.

Bản kết luận định giá tài sản số 2359/UBND-TCKH ngày 03/12/2018 trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận số vàng C trộm cắp của chị N gồm: 09 chỉ vàng 24k trị giá 31.410.000 đồng, 01 sợi dây chuyền vàng 18k trị giá 5.264.000 đồng, tổng trị giá là 36.674.000 đồng.

Vật chứng vụ án: 04 chiếc nhẫn vàng 18k loại 02 chỉ, 01 chiếc nhẫn vàng 18k loại 01 chỉ, 01 sợi dây chuyền vàng 18k (không thu hồi được) Trách nhiệm dân sự: Chị Phan Thị Thu N yêu cầu C bồi thường số tiền 20.000.000 đồng và có đơn bãi nại cho Phan Chí C.

Tại bản Cáo trạng số 225/CT – VKS ngày 30/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố bị cáo Phan Chí C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Chí C từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu bồi thường và đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và người đại diện của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giờ ngày 29/8/2018, tại phòng trọ nhà số 85, đường 11, khu phố 4, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Phan Chí C đã có hành vi lén lút trộm cắp: 04 chiếc nhẫn vàng 18k loại 02 chỉ, 01 chiếc nhẫn vàng 18k loại 01 chỉ, 01 sợi dây chuyền vàng 18k có tổng trị giá 36.674.000 đồng của chị Phan Thị Thu N đem đi bán lấy tiền tiêu xài sau đó bị bắt giữ.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị nêu trên mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; được bị hại có đơn yêu cầu bãi nại; giữa bị cáo và bị hại có mối quan hệ gia đình là cô cháu ruột là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Chị Phan Thị Thu N yêu cầu C bồi thường số tiền 20.000.000 đồng là có cơ sở, nên cần buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Phan Chí C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phan Chí C: 12 (mười hai) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2020.

3-Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 468; 584; 585 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Phan Chí C bồi thường cho chị Phan Thị Thu N số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu bên bị thi hành án chưa thi hành, thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

4- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án để tính án phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 256/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:256/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về