Bản án 256/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 256/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẨm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 221/2019/HSST ngày 10 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2019/HSST-QĐ ngày 15/8/2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn D, sinh năm 1996 tại tỉnh Vĩnh Long; thường trú: Ấp Đ xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn C, sinh năm 1961 và con bà Trần Thị M, sinh năm 1964; bị cáo có 04 anh chị em ruột bị cáo là thứ 4; tiền sự, tiền án: Không có. Bị bắt tạm giam ngày 01/4/2019, có mặt.

-Người cỏ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1997; thường trú: Ấp N xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Văn D sử dụng trái phép ma túy từ tháng 10/2018. Khoảng 18 giờ ngày 30/3/2019, D nhờ bạn tên Phong (không rõ nhân thân) mua cho D 300.000 ma túy. Đến 15 giờ ngày 01/4/ 2019, D lấy 01 phần ma túy ra sử dụng số ma túy còn lại D bỏ vào túi quần đang mặc cất giữ, đến 15 giờ 30 phút cùng ngày D nhờ bạn Nguyễn Tấn Đ chở đến cầu vượt Sóng Thần đón xe về Vĩnh Long. Đ sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Winner không có biển số chở D, khi cả hai lưu thông trên đường Nguyễn Trãi thuộc khu phố Thống Nhất 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị Công an phường Dĩ An, tỉnh Bình Dương dừng xe kiểm tra hành chính, thu giữ từ D 01 gói nylon hàn kín có chất tinh thể màu trắng, D khai nhận là ma túy. Công an phường Dĩ An lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy bạc chứa chất màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner không có biển số

Vật chứng đã xử lý: Xe mô tô nhãn hiệu Winner không có biển số, số khung RLHKC2609GY337698, số máy KC2CE1184489 thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Tấn Đ, xe Đ mới mua chưa ra biển số. Đ không biết D mang theo ma túy. Công an thị xã Dĩ An đã trả lại cho Đ xe mô tô.

Căn cứ Kết luận giám định số 278/MT-PC09 ngày 09/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định thu giữ từ D là ma túy có trọng lượng 0,2512 gam loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 244/CT-VKS-DA ngày 09/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 8 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ còn lại sau giám định

Bị cáo D không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo D không nói lòi sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/4/2019, lời khai người làm chứng, biên bản lấy lời khai, quá trình tranh tụng tại phiên tòa thể hiện bị cáo Phạm Văn D sử dụng ma túy, ngày 01/4/2019 D mang theo ma túy trên người để sử dụng thì bị bắt giữ. Kết quả giám định ma túy thu giữ từ D có khối lượng 0,2512 gam loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo D đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 244/CT-VKS ngày 09/7/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo D thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo D có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự.

[2] về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo D phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo D mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng và mức hình phạt đối với bị cáo D. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo D phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự

Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy, loại Methamphetamine khối lượng sau giám định 0,0139 gam. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2019.

3. về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Bị cáo Phạm Văn D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 256/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:256/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về