Bản án 253/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 253/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân & gia đình thụ lý số: 97/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021, về việc: Xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/6/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 70/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21/6/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T1; Sinh năm: 1985; Địa chỉ: Số 2, ngõ 320/2, tổ dân phố số 7, phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Anh Bùi Vinh T2; Sinh năm: 1982; Địa chỉ: Số 4, ngõ 174, hẻm 14/16, tổ dân phố số 4, phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

(Chị T1 có mặt tại phiên tòa; Anh T2 vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/3/2021, bản tự khai đề ngày 30/3/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị T1, là nguyên đơn, trình bầy:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T1 và anh Bùi Vinh T2 kết hôn năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã XP, huyện Từ Liêm (nay là: Phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc, đã phát sinh nhiều mâu thuẫn từ nhiều năm nay. Nguyên nhân do anh T2 thường xuyên uống rượu về chửi bới vợ con dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hai vợ chồng không có tiếng nói chung. Tháng 3/2020 chị T1 đã về nhà bố mẹ đẻ ở, chị T1 và anh T2 đã sống ly thân từ tháng 3/2020 đến nay. Chị T1 và anh T2 đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên ngày 31/10/2020 chị T1 và anh T2 đã làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận về nuôi con khi ly hôn của chị và anh T2, chị và anh T2 cùng ký tên vào đơn yêu cầu, nhưng vì lý do anh T2 không đến Tòa án để giải quyết, nên chị T1 phải làm đơn đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh T2.

Về con chung: Chị T1 và anh T2 có 02 con chung là: Cháu Bùi Anh T3, sinh ngày 02/12/2005 và cháu Bùi AT, sinh ngày 18/4/2007. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng chị T1. Sau khi ly hôn, chị T1 có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tú, còn cháu T3 giao cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Hiện nay chị T1 đang làm công nhân tại Công ty TNHH dây và cáp điện Hùng Phát, thu nhập trung bình 8.000.000 đồng/tháng. Anh T2 hiện nay đang làm lái xe tải cho Công ty giao hàng tiết kiệm, theo chị T1 được biết, anh T2 có thu nhập trung bình khoảng 10.000.000 đồng/tháng. Về điều kiện nơi ở: Chị T1 hiện nay ở nhà mẹ đẻ ở tổ 7, phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, còn anh T2 đang ở cùng bố mẹ đẻ ở tổ 4, phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, anh T2, là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập nhiều lần, nhưng đều vắng mặt tại các phiên họp và hòa giải, Tòa án không lấy được lời khai của anh T2, anh T2 không có bản tự khai gửi Tòa án.

Tại phiên tòa, chị T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh T2 vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 28; 48; 35; 39; 203 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các Điều 70; 71 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Bị đơn không chấp hành đúng quy định tại các Điều 70; 72 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 55; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân & Gia đình; Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T1 đối với anh Bùi Vinh T2. Cho chị T1 được ly hôn với anh T2; Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Tú cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T3 cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, cho đến khi có sự thay đổi khác; Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Chị Nguyễn Thị T1 và anh Bùi Vinh T2 kết hôn năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã XP, huyện Từ Liêm (nay là: Phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc, đã phát sinh nhiều mâu thuẫn từ nhiều năm nay. Nguyên nhân do anh T2 thường xuyên uống rượu về chửi bới vợ con dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hai vợ chồng không có tiếng nói chung và đã sống ly thân từ tháng 3/2020 đến nay. Nay chị T1 xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị T1 đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh T2. Về con chung: Chị T1 và anh T2 có 02 con chung. Sau khi ly hôn, chị T1 có nguyện vọng mỗi người trực tiếp nuôi một con, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là vụ án Hôn nhân & Gia đình, tranh chấp về ly hôn và nuôi con khi ly hôn, theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn có địa chỉ nơi cư trú tại phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, anh T2, là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa ngày 21/6/2021, theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về yêu cầu khởi kiện: Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị T1, là nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như sau: Về hôn nhân: Chị T1 xác định không còn tình cảm với anh T2 và đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh T2. Về con chung: Chị T1 và anh T2 có 02 con chung là: Cháu Bùi Anh T3, sinh ngày 02/12/2005 và cháu Bùi AT, sinh ngày 18/4/2007. Sau khi ly hôn, chị T1 có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tú, còn cháu T3 giao cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Xét thấy:

Về hôn nhân: Chị T1 và anh T2 kết hôn năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã XP, huyện Từ Liêm, nay là: Phường XP, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, chị T1 trình bầy vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh T2 thường xuyên uống rượu về chửi bới vợ con dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, hai vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị T1 đã nhiều lần khuyên bảo anh T2, nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không có tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 3/2020 đến nay, chị T1 và anh T2 đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, ngày 31/10/2020 chị T1 và anh T2 đã làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận về nuôi con khi ly hôn của chị và anh T2, nhưng vì lý do anh T2 không đến Tòa án để giải quyết, nên chị T1 phải làm đơn đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh T2, thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chị T1, anh T2 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị T1 xin ly hôn đối với anh T2 là có căn cứ, nên áp dụng Điều 55 của Luật Hôn nhân & Gia đình cho chị T1 được ly hôn với anh T2.

Về con chung: Chị T1 và anh T2 có 02 con chung là: Cháu Bùi Anh T3, sinh ngày 02/12/2005 và cháu Bùi AT, sinh ngày 18/4/2007. Tại phiên tòa, chị T1 có nguyện vọng, sau khi ly hôn, chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tú, còn cháu T3 giao cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Anh T2 vắng mặt tại phiên tòa, không có lời khai gửi Tòa án. Tại phiên Tòa, chị T1 khai: Nguyện vọng về nuôi con như chị đã trình bầy tại phiên Tòa hôm nay cũng đúng như sự thỏa thuận giữa chị và anh T2 được ghi trong đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận về nuôi con khi ly hôn ngày 31/10/2020, chị T1 giao nộp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nguyện vọng của chị về nuôi con sau khi ly hôn.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn của chị T1 và anh T2 là như nhau, chị T1 và anh T2 đều có việc làm và có thu nhập ổn định, có chỗ ở ổn định và đều có sự giúp đỡ của hai bên gia đình Nội và Ngoại, nên giao cháu Tú cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T3 cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi có sự thay đổi khác. Giành quyền khởi kiện cho chị T1, anh T2, khi chị T1, anh T2 có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, là phù hợp với quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con: Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân & Gia đình; Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T1 đối với anh Bùi Vinh T2. Cho chị T1 được ly hôn với anh T2; Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Tú cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T3 cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, cho đến khi có sự thay đổi khác; Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Chị T1 phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân & Gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T1 đối với anh Bùi Vinh T2.

2. Chị Nguyễn Thị T1 được ly hôn anh Bùi Vinh T2.

3. Về con chung: Giao cháu Bùi AT, sinh ngày 18/4/2007 cho chị T1 trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Bùi Anh T3, sinh ngày 02/12/2005 cho anh T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, cho đến khi có sự thay đổi khác.

Chị T1, anh T2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Giành quyền khởi kiện cho chị T1, anh T2, khi chị T1, anh T2 có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên, Tòa án không xem xét.

5. Về án phí: Chị T1 phải chịu 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm. Ghi nhận chị T1 đã nộp 300.000 đồng (Bằng chữ:Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội (Theo biên lai số: 021266, đề ngày 16/3/2020), nay chuyển thành án phí. Chị T1 đã nộp đủ án phí.

Chị T1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T2 vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 253/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:253/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về