Bản án 253/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 253/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/9/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 263/2020/HSST ngày 10/9/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 282 ngày 16/9/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Sầm Văn L – sinh năm 2000; ĐKTT và chỗ ở: Bản H, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Sầm Văn L1(c) và bà: Lang Thị M; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 313 ngày 10/5/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền án: Ngày 20/3/2018, Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xử phạt 08 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 24/11/2018. (thời điểm phạm tội L 17 tuổi 07 tháng). Bị bắt ngày 04/5/2020,

hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – CATP Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Trần Thanh K – sinh năm 1988; ĐKTT và chỗ ở: Thôn T, xã A, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con ông: Trần Văn K và bà: Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 317 ngày 10/5/2020 do Công an quận Long Biên lập và chính quyền địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền án: Ngày 15/11/2012, Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Ra trại ngày 27/01/2015. Bắt ngày 04/5/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – CATP Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo L : Luật sư Đỗ Thị Hương – Luật sư thuộc văn phòng luật sư Bảo Nhân – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. (Có đơn xin xét xử vắng mặt và gửi bài bào chữa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 04/5/2020, Trần Thanh K đến lán xây dựng của Sầm Văn L và Sầm Văn Lê tại khu sinh thái Việt Net thuộc phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội để ăn tối. Sau khi ăn xong K và L rủ nhau đi mua ma túy về để sử dụng chung. K đưa 200.000 đồng và xe máy BKS 37L2-219.46 để L chở K đi mua ma túy. Lúc này Lê đi từ trong lán ra thấy L và K chở nhau, Lê tưởng L và K đi chơi nên cũng lên xe đi cùng. L điều khiển xe máy chở K và Lê đến ngõ chợ May 10 thì bảo Lê đứng đợi còn L và K đi bộ vào ngõ mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi niL chứa ma túy đá với giá 150.000 đồng. Sau đó L chở K và Lê đến 01 lán xây dựng bỏ hoang tại khu vực phường Sài Đồng, quận Long Biên rồi cùng nhau sử dụng hết số ma túy trên. Do vẫn muốn sử dụng ma túy nên L rủ K đi mua thêm ma túy, K đồng ý. Do không có tiền nên K và L thống nhất đi cầm cố chiếc điện thoại của K. L hẹn hôm sau có tiền thì L sẽ chuộc điện thoại trả K. Sau đó L gọi Lê (trước đó Lê ra ngoài đi vệ sinh) lên xe. L điều khiển xe máy chở K và Lê đến 01 cửa hàng cầm đồ trên đường Vũ Xuân Thiều. Lê ở ngoài còn K và L vào quán cầm cố chiếc điện thoại của K được 300.000 đồng rồi L tiếp tục chở K và Lê đi vào ngõ chợ May 10. Tại đây L một mình đi xe máy vào trong ngõ mua 01 gói ma túy đá của người đàn ông không quen biết với giá 150.000 đồng. Khoảng 22h30 cùng ngày, khi L chở K và Lê về đến ngõ 204 đường Cổ Linh, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội thì bị lực lượng Cảnh sát cơ động C3D2-PK02E- Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Sầm Văn L thả từ lòng bàn tay trái xuống đất 01 túi niL màu trắng. Tổ công tác yêu cầu L nhặt túi niL lên, kiểm tra bên trong túi có chứa các tinh thể màu trắng. Tại chỗ L khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp đá L mua về để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật sau đó đưa các đối tượng về trụ sở công an phường Long Biên giải quyết. Tang vật thu giữ gồm: 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng, 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave α BKS 37L2-219.46, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70.

Tại Bản kết luận giám định số 3554/KLGĐ-PC09 ngày 13/5/2020 của Phòng k thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: tinh thể màu tráng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,203 gam.

Lời khai của Sầm Văn L và Trần Thanh K phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng có mặt tại hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 260/CT-VKS ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Sầm Văn L và Trần Thanh K về tội: „„Tàng trữ trái phép chất ma túy‟‟ theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đưa ra các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 (đối với bị cáo L ) điều 51; Điều 38, Điều 47, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: bị cáo L mức án từ 20-24 tháng tù, bị cáo K mức án từ 20-24 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng là hình phạt tiền vì bị cáo do không có thu nhập ổn định, thường xuyên. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 0,203gam methamphetamine, trả bị cáo Sầm Văn L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70, tịch thu sung công qu Nhà nước của Trần Thanh K 01 xe máy BKS 37L2-219.46.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Sầm Văn L vắng mặt nhưng có gửi bài bào chữa đề nghị: Về tội danh và điều luật cơ quan tố tụng áp dụng đối với bị cáo L là đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số trình độ học vấn thấp, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên nhận thức hạn chế để cho bị cáo hưởng mức án nhẹ hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giúp bị cáo sớm trở về hòa nhập với cộng đồng. Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có điều kiện thi hành án.

Nói lời sau cùng: các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 ngày 04/5/2020, tại khu vực đầu ngõ 204 đường Cổ Linh, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội, Sầm Văn L và Trần Thanh K có hành vi tàng trữ trái phép 0,203 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Long Biên phối hợp với tổ tuần tra Cảnh sát cơ động C3D2- PK02E- Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của Sầm Văn L và Trần Thanh K là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước về các chất ma túy, đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nhân thân các bị cáo đều đã có tiền án. Bị cáo L ngày 20/3/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xử phạt 08 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 24/11/2018 ( thời điểm phạm tội L 17 tuổi 07 tháng). Tài liệu xác minh thi hành án thể hiện L đã nộp 200.000 đồng án phí, vì vậy, bị cáo đã được xóa án tích theo Điều 107 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo K, tại bản án số 56/HSST ngày 15/11/2012 Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Bị cáo ra trại ngày 27/01/2015. Tài liệu xác minh thể hiện Trần Thanh K đã nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm,

1.277.290 đồng án phí Dân sự sơ thẩm vào ngày 21/3/2013. Đối với tiền bồi thường do người bị hại có đơn rút yêu cầu thi hành án nên ngày 17/5/2017 Chi cục Thi án dân sự huyện Văn Yên đã ra quyết định đình chỉ, vì vậy, bản án này đã được xóa án tích. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo L là người dân tộc thiểu số, cư trú trên địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới giúp các bị cáo cai nghiện ma túy và phòng ngừa tội phạm. Khi lượng hình, HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo vì có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã phân tích nêu trên. Cá thể hóa tội phạm, HĐXX thấy vai trò của các bị cáo là tương đương nhau nên cần xử phạt các bị cáo mức án ngang nhau.

[5].Về hình phạt bổ sung: do các bị cáo là đối tượng nghiện, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[6].Về biện pháp tư pháp: 01 gói giấy bạc màu trắng có chứa 0,203 gam ma túy loại Methamphetamine là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo L do không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho L nhưng cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án. 01 xe máy BKS 37L2-219.46 thu giữ của bị cáo K, quá trình điều tra thể hiện đăng ký xe mang tên Ngô Quang Thái (sinh năm: 1995, HKTT: Xóm 13 xã Quỳnh Ngọc, Quỳnh Lưu, Nghệ An). Kết quả tra cứu thể hiện xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Anh Thái khai do không có nhu cầu sử dụng nên anh đã bán chiếc xe trên cho Trần Thanh K vào tháng 11/2019. K sử dụng chiếc xe trên cho đến ngày bị bắt. Hội đồng xét xử thấy chiếc xe bị cáo K sử dụng để hành nghề lái xe ôm, đảm bảo cuộc sống vì vậy trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7]. Đối với Sầm Văn Lê, quá trình điều tra xác định Lê không biết việc L và K mua và tàng trữ ma túy trong người, chỉ đến khi Cơ quan công an kiểm tra thì Lê mới biết, kết quả xét nghiệm nước tiểu thể hiện Lê dương tính với ma túy nên ngày 01/6/2020 TAND quận Long Biên đã ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê.

[8]. Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho các bị cáo tại khu vực may chợ 10, do các bị cáo khai không biết nhân thân lai lịch và địa chỉ người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ.

Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 (đối với bị cáo L ) Điều 51; Điều 38; Điều 47, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Sầm Văn L và Trần Thanh K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Sầm Văn L 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2020.

Xử phạt: Trần Thanh K 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2020.

3. Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu huỷ 0,203 gam Methamphetamine hiện có tại Kho vật chứng - Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 27/5/2020.

- Trả lại bị cáo Sầm Văn L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70 màu xanh đen đã qua sử dụng, trả lại bị cáo Trần Thanh K 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng BSK 37L2-21946 nhưng đều cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tài sản hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/9/2020.

4. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 253/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:253/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về