TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 253/2019/HS-PT NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 03 tháng 4 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 44/2019/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thọ Huấn do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo: NGUYỄN THỌ H, sinh năm 1957; giới tính: Nam; nơi cư trú: quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 5/10; con ông: Nguyễn Thọ P (đã chết) và bà Vi Thị Í (đã chết); vợ là Nguyễn Thị T và 03 con, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh 1995; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: năm 1979 tòa án nhân dân Tối cao xử 5 năm tù tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa(đã xóa án tích); bị cáo tại ngoại; có mặt.
- Bị hại không kháng cáo: Chị Lê Thị Bạch T, sinh năm: 1978; trú tại: Tổ 9 phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 14/6/2018, chị Lê Thị Bạch T có vay của Nguyễn Thọ H, sinh năm 1957 phường Phú Lương 10.000.000 đồng, thời hạn vay là 01 tháng. Khoảng 20 giờ ngày 14/7/2018, H gọi điện thoại bảo chị T xuống quán Karaoke Mai Linh, xã Bích Hòa, huyện Thanh Oai, do Nguyễn Thị H, sinh năm 1986 (con gái Huấn) làm chủ để nói chuyện thanh toán vay nợ giữa hai bên. Sau đó chị Tuyết đi xe mô tô biển kiểm soát 29R3-4632 đến quán Karaoke Mai Linh rồi cùng H và ông Phạm Mạnh T, sinh năm 1961, trú tại thôn Kỳ Thủy, xã Bích Hòa hát Karaoke đến 01 giờ ngày 15/7/2018 thì ông T không hát nữa đi về. Lúc này chị T cũng dắt xe đi về thì H bảo ở lại và yêu cầu chị T trả H số tiền 10.000.000 đồng. Do chị T không có tiền trả nên H đi ra khỏi quán rồi đóng cửa sắt của quán khóa lại không cho chị T về, còn H đi sang bên kia đường quốc lộ 21B gọi điện cho 02 con gái là Nguyễn Thị H, sinh năm 1995 và Nguyễn Thị A đến để cùng đòi tiền chị T. Về phía chị T sau khi bị H khóa cửa nhốt trong quán thì chị Tt nhiều lần gọi bảo H mở cửa, nhưng H không mở, nên chị T gọi điện thoại cho chồng là Đỗ Như V và anh Trai là Lê Đức P đến, cả anh V và anh P đều nói chuyện yêu cầu H mở cửa cho chị Tt ra, nhưng H trả lời là phải trả tiền chị T nợ thì H mới mở, nên anh P và anh V đi trình báo công an địa phương. Trong lúc này có Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị A con Nguyễn Thọ H đến cũng đề nghị H mở cửa nhưng H chưa mở. Đến 04 giờ ngày 15/7/2018 H đồng ý và đưa chìa khóa cho chị A mở cửa quán ra, ngay sau khi mở cửa quán H tiếp tục dùng 02 khóa kim loại (01 khóa chữ U và 01 khóa treo Việt Tiệp) khóa xe máy của chị T lại mục đích là không cho chị T về để tiếp tục đòi nợ, do bức xúc chị T đã chửi nhau với chị H và chị A rồi lao vào rằng co nhau, tiếp đó chị T chạy ra trước cửa quán nhặt một nửa viên gạch định ném vào phía trong, nhưng có anh V và anh P quay lại căn ngăn nên các bên dừng lại. Sau đó Công an xã Bích Hòa và Công an huyện Thanh Oai đã tiếp nhận giải quyết vụ việc.
Hậu quả: Chị T bị 01 vết sưng nề trên vùng đỉnh đầu, cách vành tai trái 08cm; 01 vết sưng nề bầm tím ở môi trên, cách mép trái 0,5cm; 01 vết xây xước trên vùng cổ cách dái tai trái 06cm; 01 vết xây xước hình kẻ vạch tại vùng đùi trái diện 08cmx12cm, cách đầu gối trái 08cm; 01 vết trầy xước chảy máu tại đầu gối chân trái diện 04x05cm.
Vật chứng thu giữ:
- 01 xe mô tô Wave màu xanh, biển kiểm soát 29R3-4632.
- 01 con dao bằng kim loại màu nâu đen, kích thước dài 36 cm, phần rộng nhất của dao 7,5 cm, phần nhỏ nhất 03 cm.
- 01 khóa chữa U màu xanh trắng và 01 khóa Việt Tiệp màu đen trắng.
- 01 giấy vay tiền.
Đối với các thương tích trên người chị T do xô sát với Nguyễn Thị H và Nguyễn Thị A gây ra, nhưng thương tích nhẹ nên chị T từ chối giám định và không yêu cầu giải quyết.
Về vật chứng của vụ án là 01 mô tô Wave màu xanh, biển kiểm soát 29R3-4632 quá trình điều tra xác định: Đây là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị Bạch T nên ngày 02/11/2018 Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chị T là có căn cứ, đúng pháp luật.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 30/11/2018 Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thọ H phạm tội “Giữ người trái pháp luật"
Áp dụng: Khoản 1 Điều 157, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt Nguyễn Thọ Huấn 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.
Ngoài ra bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/12/2018 bị cáo Nguyễn Thọ H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình tuy nhiên do chị T nợ tiền bị cáo đòi mãi không trả còn văng lời tục tĩu nên bị cáo bức xúc mới đóng cửa để gọi người nhà đến giải quyết dẫn đến vi phạm pháp luật. Mong hội đồng xét xử xem xét hiện tại bị cáo đang bị bệnh liệt một tay một chân do mổ não, sức khỏe yếu, bị cáo xin được giảm hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Tòa án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thọ H tội giữ người trái pháp luật theo khoản 1 điều 157 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội và áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới nên đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Nguyễn Thọ H về tội “Giữ người trái pháp luật” theo khoản 1 điều 157 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo hội đồng xét xử thấy rằng:
Tòa án sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, xác định bị cáo thành khẩn khai báo để áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và quyết định hình phạt 6 tháng tù đối với bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên hội đồng xét xử phúc thẩm có xem xét tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo có án tích nhưng thời gian đã lâu và đã được xóa án, bản thân bị cáo đã lớn tuổi, sức khỏe yếu, có địa chỉ rõ ràng, trong vụ án này người bị hại là chị T có phần lỗi vay tiền đến hẹn không trả dẫn đến việc bị cáo bức xúc và đã có hành vi vi phạm pháp luật. Từ những phân tích trên cần áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự và không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo, mà cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện theo điều 65 Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Vì vậy chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thọ H, sửa bản án hình sự sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo về chính quyền địa phương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thọ H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 99/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 157; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Thọ H 06 (sáu) tháng tù về tội “Giữ người trái pháp luật” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo về ủy ban nhân dân phường Phú Lương, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 253/2019/HS-PT ngày 03/04/2019 về tội giữ người trái pháp luật
Số hiệu: | 253/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về