Bản án 253/2017/HSST ngày 28/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ SƠN S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 253/2017/HSST NGÀY 28/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã TS. Tòa án nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 298/2017HSST ngày 11 tháng 8 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/QĐXX- ST ngày 16/8/2017 đối với bị cáo: Ma Đình D - Sinh năm 1988.

HKTT: Thôn RN 2, xã Đ T, huyện Đ H, tỉnh Th Ng. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Dân tộc: Tày; Tôn Giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Ma Đình T, sinh năm 1962; Mẹ đẻ: Ma Thị Th, sinh năm 1965; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 03.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã T S, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/06/2017 tổ công tác Công an KCN Visíp phối hợp với Công an phường Đ Ng tiến hành tuần tra kiểm soát trên địa bàn khu phố N G, phường Đ Ng, thị xã T S, tỉnh Bắc Ninh. Tổ tuần tra đã phát hiện và kiểm tra hành chính 01(một) nam thanh niên có biểu hiện vi phạm pháp luật về ma túy, quá trình kiểm tra nam thanh niên này tự khai tên là Ma Đình D. Tổ tuần tra đã phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên phải quần D đang mặc 01 gói nhỏ được bọc lớp giấy mặt ngoài màu vàng, mặt bên trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. D khai đó là heroin, D vừa mua được, chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra, bắt giữ. Tổ tuần tra đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 761/KLGĐ - PC 54, ngày 02/6/2017 kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01(một) gói nhỏ bọc ngoài bằng lớp giấy mặt ngoài màu vàng, mặt bên trong màu trắng có trọng lượng 0,2015 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Heroin”.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, Ma Đình D khai nhận: Do bản thân mắc nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 05 phút ngày 02/06/2017 D thuê xe ôm từ khu trọ tại thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh đến thị xã T S, tỉnh Bắc Ninh mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi đến phường Đ Ng, thị xã T S, D bảo người lái xe ôm dừng lại, trả tiền và đi bộ trong khu dân cư để tìm nơi mua ma túy. D gặp một người thanh niên không quen biết đứng bên đường. D thấy người này có biểu hiện nghiện ma túy giống mình nên D tiến đến gần hỏi người này chỗ bán ma túy thì được người này chỉ đến một ngôi nhà có cánh cửa bằng sắt, màu xám. Theo sự chỉ dẫn của người này, D đứng trước cổng ngôi nhà có cửa bằng sắt màu xám, D lấy 150.000đồng và nhét qua khe cửa phía dưới cổng sắt vào trong nhà. Sau đó trong nhà có người cầm tiền và đưa ra ngoài qua khe dưới cổng sắt 01 gói nhỏ được bọc lớp giấy mặt ngoài màu vàng. D cầm gói nhỏ trong lòng bàn tay phải rồi đút vào túi quần phía trước bên phải đang mặc đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra, thu giữ gói ma túy.

Bản cáo trạng số 207/Ctr- VKS ngày 10/8/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Ma Đình D tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (điểm c, khoản 1, điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi cất giấu chất ma túy trên người để sử dụng cho bản thân là vi phạm. Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thị xã T S, tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra chứng cứ, lý lẽ và sau khi phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ma Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1, Điều 194; Điều 33; điểm p, khoản 1, khoản 2, Điều 46 BLHS; Khoản 3, Điều 7; điểm c, khoản 1, Điều 249 BLHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Luật số 12/2017/QH 14 sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự số 100/ 2015/QH13. Xử phạt bị cáo Ma Đình D từ 12 đến 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/6/2017. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hính sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của các người làm chứng có trong hồ sơ, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ của bị cáo là (01) gói nhỏ bọc ngoài bằng lớp giấy màu vàng, trong có chứa chất bột màu trắng; Kết luận giám định của Phòng KTHS- Công an tỉnh Bắc Ninh. Đã đủ căn cứ khẳng định, hành vi cất giấu 0,2015 gam chất ma túy là Heroine với mục đích sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu cho bản thân của Ma Đình D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS, do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T S truy tố bị cáo tội danh trên và theo khoản 1, điều 194 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, hành vi phạm tội của bị cáo còn gây tác hại đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, nhân cách và sự phát triển bình thường đối với chính bị cáo, hành vi đó còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy với bị cáo cần phải có một mức hình phạt tương xứng cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 và gia đình bị cáo có ông, bà nội bị cáo có công với Nhà nước, được tặng Huân chương chiến công Hạng nhất, bản thân bị cáo là người dân tộc Tày, tình tiết này được quy định tại khoản 2 điều 46 BLHS, nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Mặt khác theo cáo trạng, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T S truy tố bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, song theo điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 quy định khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và Luật số 12/2017/QH 14 sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 về việc thi hành có lợi cho bị cáo khi lượng hình.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù giam, với bị cáo lẽ ra cần phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của BLHS. Song xét bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có tài sản, nghề nghiệp và thu nhập không ổn định, mục đích phạm tội không có tính tư lợi nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Số Heroine còn lại là chất ma tuý Nhà nước nghiêm cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng do vậy cần tịch thu tiêu huỷ. Liên quan trong vụ án còn có: Đối với người đã bán ma túy và người chỉ nơi mua ma túy cho bị cáo và ngôi nhà, quá trình điều tra, bị cáo khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, và không nhớ ngôi nhà đã bán ma túy cho bị cáo. Cơ quan điều tra chưa làm rõ được nên tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ma Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Áp dụng khoản 1, Điều 194; Điều 33; điểm p, khoản 1, khoản 2, Điều 46; Điều 41 BLHS; Điều 76; Điều 228 BLTTHS; khoản 3, Điều 7; điểm c, khoản 1, Điều 249 BLHS 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Luật số 12/2017/QH 14 sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt: Ma Đình D 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/6/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 28/8/2017 để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo biên bản bàn giao giữa Công an thị xã T S với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T S, tỉnh Bắc Ninh ngày 09/8/2017.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 253/2017/HSST ngày 28/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:253/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về