Bản án 252/2020/HSPT ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 252/2020/HSPT NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 193/2020/HSPT ngày 20/4/2020 đối với bị cáo Lê Đức M, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HSST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

LÊ ĐỨC M; giới tính: Nam; sinh ngày: 20/01/1995; nơi sinh: tại Hải Phòng; thường trú: A đường CV, tổ dân phố TV (số cũ: B TV), phường TC, quận HA, Tp. Hải Phòng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 10/12; con ông LĐH và bà LTO; vợ: BTT, có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam từ ngày 17/10/2019. (Có mặt).

Ngoài ra còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thành L và bà Bùi Thị T không có kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đức M vào Thành phố Hồ Chí Minh đi du lịch. Chiều ngày 17/10/2019, Phùng Quốc V (bạn của M) ở quận Tân Phú rủ M đến nhà chơi. Trước khi đi, M hỏi mua của 01 người thanh niên (không rõ lai lịch) 30.000.000 đồng ma túy “Lắc” và “Khay”. Người thanh niên hẹn M đến cây xăng góc đường Trần Phú-Lê Hồng Phong, Quận 5 để giao hàng. Sau khi nhận ma túy, M bỏ vào túi xách cầm tay và thuê xe ôm đến nhà của V. Đến chiều tối, trong nhóm bạn của V có người tên L rủ đi uống cà phê trên đường Bùi Viện, Quận 1, V sử dụng xe Honda hiệu AirBlade, biển số xxxxxx chở M. Đến khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, V và M đến giao lộ Nguyễn Chí Thanh-Thuận Kiều, Phường 12, Quận 5 thì bị Tổ tuần tra 363 Công an Quận 5 kiểm tra hành chính, phát hiện M đang cầm túi xách trên tay trái, bên trong cất giấu 01 gói nylon chứa 06 gói nylon nhỏ chứa viên nén màu cam (05 viên/gói), 01 gói nylon bên trong có 02 viên nén màu cam, 04 gói nylon nhỏ chứa viên nén màu cam (05 viên/gói), 01 gói nylon nhỏ chứa tinh thể không màu. M khai là thuốc lắc và hàng khay mua về sử dụng. Tổ công tác đưa Lê Đức M và Phùng Quốc V cùng tang vật về Công an Phường 12, Quận 5 lập biên bản người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5, M khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. M khai không nói cho V biết là M mang theo ma túy giấu trong túi xách tay. Lời khai của M phù hợp với lời khai của V.

Kết luận giám định số 1945/KLGĐ-H ngày 24/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- 01 gói được được niêm phong bên ngoài có chữ ký của Lê Đức M và hình dấu Công an phường 12, Quận 5, bên trong có:

+ 01 gói nylon chứa 30 viên nén màu cam trong 06 gói nylon (ký hiệu M1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 10,5375g, loại MDMA.

+ 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu cam (ký hiệu M2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6953g, loại MDMA.

+ 04 gói nylon chứa 20 viên nén màu cam (ký hiệu M3) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,0852g, loại MDMA.

+ 10 gói nylon chứa tinh thể không màu (ký hiệu M4) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,7127g, loại Ketamine.

Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38, Điều 50; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Đức M 08 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

Ngày 13 tháng 3 năm 2020, bị cáo M có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lê Đức M giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt tù, vì mức hình phạt tù cấp sơ thẩm tuyên phạt là quá nặng, bị cáo là lao động chính phải nuôi con nhỏ.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, phân tích các tình tiết tăng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, đơn kháng cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Xét, bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mức hình phạt 08 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm số 27/2020/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, giảm hình phạt tù cho bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.

- Bị cáo Lê Đức M không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luật: Ngày 17/10/2019, tại giao lộ Nguyễn Chí Thanh-Thuận Kiều, Phường 12, Quận 5, Tp.Hồ Chí Minh, bị cáo Lê Đức M bị Công an Quận 5, Tp.Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 18,3180gam, loại Methamphetamine và 8,7127gam, loại Ketamine, nhằm mục đích sử dụng. Với hành vi phạm tội như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 và khỏan 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13 tháng 3 năm 2019, bị cáo M có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được giảm hình phạt tù, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã xem xét toàn diện vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đó là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo phạm tội lần đầu, trước khi phạm tội không có vi phạm gì, toàn bộ khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã bị thu giữ và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo bổ sung giấy xác nhận là lao động chính, vợ không có việc làm, phải nuôi con nhỏ. Mức hình phạt 08 năm tù Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là có phần nghiêm khắc so với hành vi phạm tội của bị cáo, nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HSST ngày 12/3/2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ, nên chấp nhận.

[3] Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đức M, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận 5, giảm hình phạt cho bị cáo.

- Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Đức M 07 (bảy) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/10/2019.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Đức M không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 252/2020/HSPT ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:252/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về