Bản án 252/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 252/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong các ngày 31 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:244/2019/TLST- HS ngày 03 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 378/2019/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐẶNG N, sinh năm 1984 tại Nam Định.

Nơi cư trú: H, phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp Không; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc:Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc H và bà Đoàn Thị T; có vợ: Trần Thị Bích G; 01 con 04 tuổi; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang tại ngoại, áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 22/8/2019. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Anh Phạm Văn Đ – Sinh năm 1992 HKTT: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định. (Vắng mặt)

Người có quyền lợi, Nghĩa vụ liên quan đếnghĩa vụ án:

1/ Bà Ngô Phương O – Sinh năm 1957 Trú tại: Số C đường D, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. (Có mặt).

2/ Chị Nguyễn Thị Thu B – Sinh năm 1980 Trú tại: Số X đường Y, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng N là nhân viên của cửa hàng mua bán xe máy cũ tại số U Khương Đình, Hạ Đình, Thanh Xuân, Hà Nội do anh Phạm Văn Đ làm chủ. Anh Đ ủy quyền cho N có nhiệm vụ trông coi, quản lý, trao đổi mua bán xe máy cũ tại cửa hàng, hai bên thỏa thuận bằng miệng mọi việc mua bán xe máy phải ghi vào sổ giao dịch tại cửa hàng để anh Đ kiểm tra. Hàng ngày anh Đ đưa cho N khoảng 30.000.000đ đến 50.000.000đ để N duy trì giao dịch mua bán xe máy. Trong quá trình làm việc tại cửa hàng, N đã lợi dụng sự tin tưởng của anh Đ gây ra 02 vụ chiếm đoạt tài sản của anh Đ, cụ thể.

Vụ thứ nhất: Ngày 16/07/2018 N mua của anh Bùi Huy L chiếc xe máy Honda PCX, màu nâu đen, BKS: 29B1 – 002.88 với giá là 15.000.000 đồng. N lấy tiền của cửa hàng mà anh Đ đã giao cho trước đó để trả tiền mua xe cho anh L rồi vào sổ theo dõi của cửa hàng. Đến ngày 05/8/2019 N đã mang chiếc xe máy trên cùng 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Thị Tuyết Mai có số 022566 và 01 chứng minh thư nhân mang tên Đặng N đến cửa hàng cầm đồ tại số C Quan Nhân, Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội cầm cố cho bà Ngô Phương O được 15.000.000đ, đến ngày 18/08/2018, N lại đến cửa hàng cầm đồ của bà Ngô Phương O vay thêm 4.000.000đ, tổng cộng 19.000.000đồng. Toàn bộ số tiền trên N đã tiêu sài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Ngày 06/08/2018 N mua của anh Vũ Văn W chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen bạc, BKS: 17B6 – 103.95 với giá là 5.500.000 đồng. N lấy tiền của cửa hàng mà anh Đ đã giao cho trước đó để trả tiền mua xe cho anh W rồi vào sổ theo dõi của cửa hàng. Ngày 25/08/2018 N đã mang chiếc xe này cùng 01 đăng kí xe máy số 018600 mang tên Vũ Văn Bính và 01 bằng lái xe ô tô nước ngoài có ảnh của Đặng N mặt sau bằng có số 7721519246 đến cửa hàng cầm đồ số Y, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội cầm cố cho chị Nguyễn Thị Thu B được 6.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên N đã tiêu xài cá nhân hết.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo N 01 chứng minh thư nhân mang tên Đặng N; 01 bằng lái xe ô tô nước ngoài có ảnh của Đặng N mặt sau bằng có số 7721519246.

Tại cơ quan điều tra Đặng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Căn cứ biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự Quận Thanh Xuân số 230/BBĐG ngày 15/10/2019, định giá 01 chiếc xe máy Honda PCX, màu nâu đen, BKS: 29B1 - 002.88 số máy 0027646;

số khung 0027646 xe đã qua sử dụng có giá 15.000.000đồng; 01 chiếc xe máy Honda Wave anpha màu đen BKS: 17B6-103.95, số máy C12E5214383; số khung 1213DY214140, xe đã qua sử dụng có giá 6.000.000đồng. Tổng giá trị của hai tài sản trên là 21.000.000đồng.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thừa nhận việc bị truy tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị hại là anh Phạm Văn Đ đã nhận lại tài sản do cơ quan điều tra trao trả là chiếc xe máy Honda PCX, màu nâu đen, BKS: 29B1 - 002.88 số máy 0027646; số khung 0027646, đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Tuyết Mai và chiếc xe Honda Wave Alpha màu đen BKS: 17B6-103.95, số máy C12E5214383; số khung 1213DY214140, đăng ký xe mang tên Vũ Văn Bính. Anh Đ không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và không có đề nghị gì khác.

Người có quyền lợi Nghĩa vụ liên quan bà O đã được bị cáo N bồi thường số tiền 10.000.000đồng trước khi xét xử, bà O không yêu cầu N phải bồi thường nốt số tiền còn lại và không có đề nghị gì, yêu cầu gì khác. Chị B không có yêu cầu, đề nghị N phải bồi thường số tiền 6.000.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 214/CT-VKSTX ngày 05/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đặng N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đã nêu, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g, khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 20 tháng đến 24 tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Về xử lý vật chứng: Trả lại 01 chứng minh thư nhân mang tên Đặng N; 01 bằng lái xe ô tô nước ngoài có ảnh của Đặng N mặt sau bằng có số 7721519246. Đối với số tiền 6.000.000đồng bị cáo nhận từ việc đặt xe cho chị B và 9.000.000đồng nhận từ việc đặt xe cho bà O, chị B và bà O không yêu cầu nhưng xét đây là số tiền do bị cáo được hưởng lợi từ hành vi phạm tội mà có cho nên buộc bị cáo phải truy nộp hai khoản tiền này là 15.000.000đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điểu tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng.

Tại phiên tòa bị cáo Đặng N công nhận nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng. Qua xét hỏi và tranh luận bị cáo khai nhận hành vi phạm tội hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, lời khai người có quyền lợi Nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản, phù hợp với tang vật, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ ngày 16/7/2018 đến ngày 06/8/2018 Đặng N được bị hại tin tưởng giao quản lý tài sản nhưng bị cáo đã lợi dụng lòng tin, dùng thủ đoạt gian dối chiếm đoạt của bị hại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda PCX, màu nâu đen, BKS: 29B1 – 002.88 và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu đen BKS: 17B6 – 103.95 tổng giá trị của hai tài sản trên là 21.000.000đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Đặng N đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội và hình phạt được quy định tại điểm b, khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự 2015.

Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố bị cáo Đặng N để xét xử theo tội danh đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức pháp luật đầy đủ nhưng do lười lao động, ham chơi không chịu tu dưỡng bản thân, thích hưởng lợi bằng bằng việc chiếm đoạt tài sản của người khác nên cần thiết phải xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và đảm bảo phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy vậy, khi lượng hình có xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g, khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Đối với bà Ngô Phương O khi nhận cầm cố chiếc xe máy nhãn hiệu Honda PCX, màu nâu đen, BKS: 29B1- 002.88; chị Nguyễn Thị Thu B khi nhận cầm cố chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen bạc, BKS: 17B6 - 103.95 của bị cáo, về ý thức chủ quan, khi nhận cầm cố bà O, chị B đều không biết đó là tang vật vụ án. Cơ quan công an ra quyết định xử phạt hành chính đối với bà O, chị B theo Nghị định 167 ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Do vậy HĐXX không xem xét.

[4] Phần trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra, bị hại đã được nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không xem xét. Đối với người có quyền lợi Nghĩa vụ liên quan bà Ngô Phương O đã được bị cáo trả số tiền 10.000.000đồng trong tổng số tiền vay 19.000.000đồng, bà O không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại. Chị Nguyễn Thị Thu B không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 6.000.000đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với số tiền 9.000.000đồng bị cáo nhận từ việc cầm cố xe cho bà O và 6.000.000đồng bị cáo nhận từ việc cầm cố xe cho chị B; mặc dù bà O, chị B không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả nhưng xét đây là số tiền do bị cáo được hưởng lợi từ hành vi phạm tội mà có cho nên buộc bị cáo phải truy nộp hai khoản tiền này là 15.000.000đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng: Trả lại Đặng N lại 01 chứng minh thư nhân mang tên Đặng N; 01 bằng lái xe ô tô nước ngoài có ảnh của Đặng N mặt sau bằng có số 7721519246.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo Đặng N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2/ Áp dụng: khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g, khoản 2 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đặng N 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng chẵn) là tiền hưởng lợi bất chính do hành vi phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

4/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho bị cáo Đặng N 01 CMND mang tên Đặng N có số 162664276; 01 bằng lái xe ô tô nước ngoài có ảnh của Đặng N mặt sau bằng có số 7721519246.

Hiện các vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/12/2019.

5/ Án phí và quyền kháng cáo:

Áp dụng: Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, danh mục án phí kèm theo. Mục 1 phần I danh mục án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016).

Bị cáo Đặng N phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi Nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 252/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:252/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về