TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 25/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 455/2020/TLPT-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh H; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 206/2020/HS-ST ngày 25-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện T.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1976 tại Thanh Hóa; Giấy chứng minh nhân dân số: 27210632X, do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 03-02-2007; nơi đăng ký thường trú: Tổ X, Khu phố Y, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Kinh doanh nhà nghỉ; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc H (tên gọi khác: Nguyễn Bá H) và bà Lê Thị D; có chồng tên Đoàn Ngọc M và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 25-02-2020; sau đó, chuyển tạm giữ, tạm giam; đến ngày 13-7-2020, được Viện Kiểm sát nhân dân huyện T hủy bỏ biện pháp tạm giam; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; vắng mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra, vụ án còn có 03 bị cáo khác, không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến họ, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Khoảng tháng 01/2017, Trần Thị P thuê đất của gia đình bà Vũ Thị N tại Ấp X, xã S, huyện T, để mở quán có tên “P H 268”, kinh doanh buôn bán cà phê, nước giải khát; quán có nhân viên phục vụ khách. Đến đầu tháng 02/2020, P thuê chị Huỳnh Thị Q (tên gọi khác là M), chị Cao Thị Ngọc D và chị T (không rõ nhân thân, lai lịch) phục vụ khách. Ngoài P quản lý quán, nhân viên, thì còn Nguyễn Mạnh D (con ruột của P) phụ giúp P quản lý nhân viên. Quá trình hoạt động: P, Q và D thỏa thuận với nhau, khi có khách nam có nhu cầu kích dục hoặc mua dâm, tiếp viên thỏa thuận giá với khách; cụ thể: Kích dục trong 30 phút giá 150.000 đồng, mua dâm trong 60 phút giá 400.000 đồng; tiền bán dâm thu được của khách, nhân viên đưa cho P. Khi khách có nhu cầu, nhân viên phải thông báo cho P và D biết; P hoặc D đồng ý, nhân viên mới được đi bán dâm. Sau khi bán dâm xong, nhân viên được hưởng 100.000 đồng, còn 300.000 đồng thì nhân viên đưa cho P; nhân viên sẽ được hưởng 50.000 đồng trong 300.000 đồng, P ghi vào sổ, đến cuối tháng cộng lại và trả cho nhân viên; P được hưởng 250.000 đồng; tiền kích dục thì nhân viên được hưởng 25.000 đồng/30 phút; chi phí ăn, uống và ngủ do P chịu.
Ngày 05/02/2020, Nguyễn Mạnh D chở nhân viên Q đến nhà nghỉ “TH” tại Tổ X, Ấp Y, xã S, huyện T, do Nguyễn Thị Thanh H làm chủ, để bán dâm cho khách. Khi đến nhà nghỉ, D đang ngồi chờ Q, H đã gặp D, để nói chuyện và biết được D làm ở quán cà phê, có nhân viên đi bán dâm cho khách; H đã lấy số điện thoại từ D, để liên hệ và lưu tên là “88”; D cho H biết giá bán dâm 60 phút là 400.000 đồng, qua đêm là 1.200.000 đồng, D thỏa thuận với H:“nếu chị không từ chối được khách thì gọi cho mẹ D, để cho nhân viên ra”. Khoảng một tuần sau, thì có khách nam vào thuê phòng và có nhu cầu mua dâm, nhờ H gọi gái bán dâm; H đã liên hệ qua số điện thoại D cho nhưng không được, nên H nói Đoàn Ngọc Anh T (con ruột của H), đến quán cà phê “P H 268”, để gọi nhân viên đến bán dâm cho khách; T đồng ý và điều khiển xe đạp điện đến quán và gặp được nhân viên tên Q; T chở Q về nhà nghỉ cho H rồi đi chơi. Khoảng một tuần sau, H cũng nói T đến chở nhân viên về nhà nghỉ để bán dâm; T đến quán “P H 268”, nói cho nhân viên ra nhà nghỉ “TH”; do chưa có nhân viên, nên T bỏ đi chơi; một lúc sau, Q đi ra gặp H và đã bán dâm cho khách tại nhà nghỉ.
Đến đêm 20/02/2020, có khách nhờ H gọi gái bán dâm đến, để mua dâm. H đã sử dụng điện thoại OPPO X9090 có số sim 034368486X, gọi cho P; hai bên thỏa thuận giá qua đêm là 1.200.000 đồng; sau đó, P và D hỏi Q, thì Q đồng ý đi bán dâm. D sử dụng điện thoại hiệu Coolpad F110 có số sim: 036865429X gọi cho H và biết khách còn ở nhà nghỉ, nên D đã cho Q đi bán dâm. Sau khi bán dâm cho khách xong, Q nhận 1.200.000 đồng, rồi điều khiển xe đạp điện đi về đưa tiền bán dâm cho P, P đưa lại 500.000 đồng; đối với 700.000 đồng thì P ghi vào sổ, trả cho Q 125.000 đồng và còn lại P được hưởng.
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 24/02/2020, anh Vũ Văn H đến uống nước và thỏa thuận mua dâm với Q với giá 400.000 đồng; sau khi được P đồng ý, Q nói với anh H đến nhà nghỉ “TH”, Q đưa cho P số tiền 400.000 đồng. Sau đó, anh H đến nhà nghỉ “TH” thuê phòng số 8, lầu 2; H đã lấy tiền phòng là 100.000 đồng; khoảng 10 phút sau, Q đi xe đạp điện đến. Đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, khi Q đang bán dâm cho H, thì bị Công an huyện T tiến hành kiểm tra và bắt quả tang.
Quá trình điều tra, H thừa nhận trong quá trình kinh doanh nhà nghỉ, ít khách, nên khi khách có nhu cầu mua dâm, H đã gặp D, biết quán cà phê của P và D có nhân viên bán dâm; sau đó, H đã liên hệ với D và P, để cho nhân viên ra bán dâm. H đã nói T đến quán cà phê của P 02 lần, để liên hệ nhân viên đến bán dâm và đã nhiều lần cho khách mua bán dâm tại phòng số 8, để thu lợi; H chỉ thu tiền phòng của khách nam. Đêm ngày 24/02/2020, H đã cho Q bán dâm tại phòng số 8 là 03 lần, lần thứ 3 bị công an phát hiện bắt giữ và H đã thu lợi là 240.000 đồng; trước đó, khách đã mua bán dâm tại nhà nghỉ khoảng 5 lần. Từ thời gian ngày 05/02/2020 đến ngày bị bắt, H thu lợi từ tất cả những lần cho khách thuê phòng mua bán dâm là 730.000 đồng.
P thừa nhận cùng với D, đồng ý cho Q và D bán dâm tại nhà nghỉ “TH” và tại quán cà phê cho khách, để hưởng lợi, Q đã bán dâm cho khách khoảng 07 lần, D bán dâm cho khách khoảng 04 lần. D thừa nhận đã 02 lần chở Q đến nhà nghỉ “TH”, để bán dâm cho khách. Từ thời gian đầu tháng 02/2020 đến ngày 24/02/2020, D và P thu lợi được khoảng 6.000.000 đồng.
Q và D thừa nhận làm tại quán cà phê “PH 268” từ thời gian tháng 02/2020, khi bán dâm cho khách, phải báo cho P hoặc D biết và phải có sự đồng ý của P hoặc D; sau khi nhận tiền thì đưa lại cho P; đồng thời, D và P cũng yêu cầu Q và D đến bán dâm tại nhà nghỉ “TH”. Trong thời gian ở quán cà phê, Q đã tham gia bán dâm nhiều lần và được sự đồng ý của P và D. Ngày 24/02/2020, đã bán dâm cho khách tại nhà nghỉ “TH” là 03 lần, lần cuối bán dâm cho người khách tên H thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra, cách ngày 24/02/2020 khoảng 04 ngày, Q được P và D gọi đi bán dâm tại nhà nghỉ “TH” đến 06 giờ sáng, đã thỏa thuận giá mua dâm là 1.200.000 đồng; bán dâm xong, Q về đưa tiền cho P. D thừa nhận bán dâm nhiều lần tại nhà nghỉ “TH” và tại quán cà phê của P, tiền bán dâm, D giao lại cho P.
2.Vật chứng:
- 01 điện thoại Oppo X9090 màu hồng, số sim 034368486X; 01 điện thoại Nokia 1035 màu đỏ số sim 0337 063 23X; 01 điện thoại Coolpad F110 màu đỏ, số sim 0368 654 29X; 01 xe đạp điện Osaks Alpha màu đen.
- Số tiền 10.000.000 đồng thu giữ của Trần Thị P.
- Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Nguyễn Thị Thanh H đã tự nguyện nộp ngân sách Nhà nước 730.000 đồng tiền thu lợi bất chính.
- 01 bao cao su và vỏ bao cao su; 01 cuốn vở ghi kích thước 155 mm x 205 mm.
3. Nội dung khác có liên quan:
Đối với hành vi bán dâm của Huỳnh Thị Q (M) và Cao Thị Ngọc D cùng hành vi mua dâm của Vũ Văn H, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.
4. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 206/2020/HS-ST ngày 25-9-2020 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 48/2020/TB-TA ngày 30-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện T, đã quyết định như sau:
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Thanh H, Trần Thị P, Nguyễn Mạnh D và Đoàn Ngọc Anh T phạm tội “Chứa mại dâm”, theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Xử phạt Nguyễn Thị Thanh H và Trần Thị P, mỗi bị cáo 05 năm 03 tháng tù.
- Xử phạt Nguyễn Mạnh D 05 năm tù.
- Xử phạt Đoàn Ngọc Anh T 03 năm tù cho hưởng án treo.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
5. Kháng cáo:
Ngày 09-10-2020, bị cáo Nguyễn Thị Thanh H kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.
6. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Chứa mại dâm”, theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Ngày 22-01-2021, bị cáo Nguyễn Thị Thanh H đến Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai nộp đơn xin hoãn phiên tòa; với lý do đang chăm sóc chồng (ông Đoàn Ngọc M), điều trị bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai.
Trước khi mở phiên tòa, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xác minh tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, thể hiện: “Bệnh nhân Đoàn Ngọc M, sinh năm 1974 nhập viện vào ngày 16-01-2021 và ra viện vào ngày 22-01-2021”.
Bị cáo Nguyễn Thị Thanh H vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm không có lý do khác; do đó, sự vắng mặt của của bị cáo không phải vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về tội danh:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị Thanh H về tội “Chứa mại dâm”, theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Về kháng cáo:
3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh H đã 02 lần yêu cầu bị cáo Đoàn Ngọc Anh T (sinh ngày 11-12-2002), đến quán cà phê “PH 268”, chở nhân viên của quán đến nhà nghỉ, để bán dâm; do vậy, bị cáo H phải chịu tình tiết “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”, được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Cấp sơ thẩm xác định: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo tự nguyện nộp tiền thu lợi bất chính; cha của bị cáo ông Nguyễn Ngọc H tham gia kháng chiến chống Mỹ, được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Các tình tiết này, được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo không cung cấp tình tiết đặc biệt nào mới.
3.3. Về hình phạt: Việc cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án nêu trên là đã xem xét và giảm nhẹ cho bị cáo; do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. [4] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng sự; hình Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh H;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 206/2020/HS-ST ngày 25-9-2020 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 48/2020/TB-TA ngày 30-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện T.
1. Tội danh và hình phạt:
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh H 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày người bị kết án Nguyễn Thị Thanh H vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù; được trừ đi thời gian đã bị giam giữ, từ ngày 25-02-2020 đến ngày 13-7-2020.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thanh H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 25/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 25/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về