Bản án 25/2021/DS-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ (hụi)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 25/2021/DS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GÓP HỌ (HỤI)

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 212/2020/TLST-DS ngày 12 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự góp họ (hụi)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2021/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 44/2021/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954 Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T là bà Cao Thị Khánh V, sinh năm 1982 theo giấy ủy quyền lập ngày 27/4/2021.

2. Bị đơn: Vợ chồng ông Võ Văn B, sinh năm 1981 và bà Trần Thị D, sinh năm 1981 (sau đây viết tắt là: Vợ chồng bà D).

Cùng địa chỉ: Ấp Đình, xã N T, huyện A B, tỉnh Kiên Giang (Bà V có mặt tại phiên tòa, ông B và bà D vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22-01-2020 và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện của nguyên đơn trình bày yêu cầu như sau:

Vào năm 2017 và năm 2018 âm lịch bà T có tham gia các dây hụi do vợ chồng bà D làm chủ cụ thể như sau:

- Dây hụi thứ nhất: Hụi 1.000.000 đồng, mở ngày 06/12/2017 âm lịch, tháng xổ 01 lần vào ngày 06 hàng tháng, hụi có 35 phần, hụi có lãi và có hoa hồng 500.000 đồng/01 lần xổ hụi. Dây hụi này bà T tham gia 01 phần, đóng hụi sống đến hết lần thứ 24 thì ông B bà D tuyên bố úp hụi, dây hụi này ông B bà D còn nợ lại bà T 24 lần hụi sống với số tiền 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

- Dây hụi thứ hai: Hụi 2.000.000 đồng, mở ngày 10/01/2017 âm lịch, tháng xổ 01 lần vào ngày 10 hàng tháng, hụi có 29 phần, hụi có lãi và có hoa hồng 1.000.000 đồng/01 lần xổ hụi. Dây hụi này bà T tham gia 01 phần, đóng hụi sống đến hết lần thứ 22, đến lần thứ 23 thì tuyên bố úp hụi, dây hụi này ông B bà D còn nợ lại bà T 22 lần hụi sống với số tiền 44.000.000 đồng (Bốn mươi bốn triệu đồng).

Nay bà Nguyễn Thị T yêu cầu giải quyết buộc ông Võ Văn B và bà Trần Thị D phải trả cho bà T số tiền hụi sống còn nợ là 68.000.000 đồng (Sáu mươi tám triệu đồng). Ngoài ra không yêu cầu và trình bày gì thêm.

Bị đơn ông Võ Văn B và bà Trần Thị D: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Võ Văn B và bà Trần Thị D biết và ấn định thời gian để ông B và bà D có ý kiến về việc bà T khởi kiện đối với ông B và bà D trả tiền hụi nhưng ông B và bà D không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông B và bà D vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân Nguyễn Thị T và sổ hộ khẩu; danh sách hụi viên; biên bản thỏa thuận dân sự ngày 19/10/2020 giữa bà D và bà T; thông báo chỉ dẫn ngày 20/10/2020 của Công an huyện An Biên; giấy ủy quyền.

Tại phiên tòa:

Người đại diện nguyên đơn bà Cao Thị Khánh V thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu ông Võ Văn B và bà Trần Thị D trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền hụi sống còn nợ là 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng), ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Ông Võ Văn B và bà Trần Thị D vắng mặt nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu tập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 68, Điều 97, Điều 208, 209, 210 và 211 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét khởi kiện của bà Nguyễn Thị T yêu cầu vợ chồng bà D trả cho bà T số hụi còn nợ là 45.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông B và bà D nhưng ông B và bà D vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên tòa lần thứ hai người đại diện nguyên đơn không yêu cầu hoãn phiên tòa. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông B và bà D theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của đại diện nguyên đơn tại phiên tòa, chỉ yêu cầu vợ chồng bà D trả số tiền nợ hụi sống theo sự thống nhất của bà D là 45.000.000 đồng, HĐXX nhận thấy tại bút lục số 07 có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà D thừa nhận còn nợ bà T số tiền hụi sống 45.000.000 đồng và cam kết trả hàng tháng nếu không thì bán nhà được sẽ trả một lần, như vậy xác định yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 và Điều 26 Nghị định số: 144/2006/NĐ- CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường. Buộc ông Võ Văn B và bà Trần Thị D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền hụi còn nợ 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng).

[4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận như nêu ở phần nhận định trên.

[5] Về án phí, căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm: 45.000.000đ x 5% = 2.250.000đ (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn 1.750.000 theo biên lai thu số 0007041 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên;

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 471 của Bộ luật dân sự; Điều 27 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 và Điều 26 Nghị định số 144/2006/NĐ- CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ hụi 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng).

Buộc ông Võ Văn B và bà Trần Thị D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền hụi còn nợ 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án một khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

Buộc ông Võ Văn B và bà Trần Thị D có nghĩa vụ nộp toàn bộ án phí vụ kiện số tiền 2.250.000đ (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho bà Nguyễn Thị T 1.750.000 theo biên lai thu số 0007041 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên;

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2021/DS-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự góp họ (hụi)

Số hiệu:25/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về