TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, TP. HÀ NỘI
BẢN ÁN 25/2020/HSST NGÀY 27/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân, quận B, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/HSST ngày 17 tháng 01 năm 2020, đối với các bị cáo:
1. Họ tên: Hoàng Văn T, năm sinh: 1994; Tên gọi khác: không; Giới tính:
Nam Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 8, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở: Tổ dân phố T, phường Phương CA, quận N, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Hoàng Văn Đ, sinh năm 1972; Nghề nghiệp: lao động tự do; Con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 – Nghề nghiệp: lao động tự do; Gia đình có 03 con, bị cáo là con thứ nhất.
Tiền sự: không. Tiền án:
+ Bản án số 239/2015/HSST ngày 17/11/2015 của Tòa án ND quận B xử phạt Hoàng Văn T 10 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”. Thông báo kết quả thi hành án số 15 ngày 28/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, TP Hải Phòng thể hiện: T đã thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm và số tiền nộp sung quỹ nhà nước.
+ Bản án số 186/2015/HSST ngày 24/12/2015 của Tòa án huyện T, Hải Phòng xử phạt T 06 tháng tù tội “Đánh bạc”, Tổng hợp hình phạt 10 tháng tù của Bản án số 239/2015/HSST ngày 17/11/2015 của Tòa án ND quận B, buộc T phải chấp hành hình phạt chung là 15 tháng 24 ngày. Thi hành xong hình phạt tù ngày 09/12/2016. Thông báo kết quả thi hành án số 15 ngày 28/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, TP Hải Phòng thể hiện: T đã thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm.
+ Bản án số 179/2017/HSST ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 1 năm 4 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/9/2018.
Phạm tội lần này của Hoàng Văn T là “Tái phạm nguy hiểm”.
Bị cáo bị bắt trong T hợp bắt người bị giữ trong T hợp khẩn cấp ngày 31/10/2019, hiện đang tạm giam tại trại giam số I – Công an thành phố Hà Nội.
2. Họ tên: Nguyễn Vinh P, năm sinh: 1986; Tên gọi khác: Tú ; Giới tính:
Nam Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: cụm 4, Ngã Tư, xã S, huyện H, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Tổ dân phố T, Phương CA, quận N, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: lao động tự do;Văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm: 1954 (đã chết) và con bà Trần Thị M, sinh năm:
1956 (đã chết); Gia đình có 02 con, bị can là con thứ nhất; Vợ: Đỗ Thị Thu T, sinh năm 1990 (có 02 lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017).
Tiền sự:
- Ngày 17/1/2014, Công an phường L, quận Đ, Hà Nội xử phạt hành chính theo Quyết định số 06 về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Xác minh tại Công an phường L, quận Đ, Hà Nội thể hiện: hiện hồ sơ đã nộp lưu Công an quận nên không có không xác định được P đã chấp hành hình phạt chưa (đã hết thời hiệu bị coi là bị xử phạt vi phạm hành chính).
- Ngày 22/1/2018, Công an phường D, C, Hà Nội xử phạt hành chính theo Quyết định số 01 về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Xác minh tại Công an phường D, quận C, Hà Nội thể hiện: hiện P chưa nộp phạt. Hồ sơ đã nộp lưu (đã hết thời hiệu bị coi là bị xử phạt vi phạm hành chính).
Tiền án:
+ Bản án số 88/2014/HSST ngày 29/8/2014 của Tòa án ND quận N, TP Hà Nội xử phạt Nguyễn Vinh P 15 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/5/2015. Xác minh thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N thể hiện: P đã thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm (đã được xóa án tích).
+ Bản án số 03/2019/HSST ngày 19/12/2018 của Tòa án quận B, TP Hà Nội xử phạt Nguyễn Vinh P 07 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 21/4/2019 (chưa được xóa án tích).
Phạm tội lần này của P là “Tái phạm”.
Bị cáo bị bắt trong T hợp bắt người bị giữ trong T hợp khẩn cấp ngày 31/10/2019, hiện đang tạm giam tại trại giam số I – Công an thành phố Hà Nội.
3. Họ tên: Vi Văn H, năm sinh: 1998; Tên gọi khác: không ; Giới tính: Nam:
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm T, thị trấn chợ C, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Chỗ ở: Tổ dân phố T, Phương CA, quận N, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam:
Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Họ tên bố: Vi Văn H sinh năm 1977 - Nghề nghiệp: làm ruộng và con bà Mãn Thị L, sinh năm 1977 – Nghề nghiệp: làm ruộng.
Gia đình có 02 con, bị can là con thứ nhất. Tiền sự: không.
Tiền án:
+ Bản án số 151/2019/HSST ngày 22/5/2019 của Tòa án ND quận H, TP Hà Nội xử phạt Vi Văn H 06 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/7/2019 (chưa được xóa án tích).
Phạm tội lần này của H là “Tái phạm”.
Bị cáo bị bắt trong T hợp khẩn cấp ngày 31/10/2019, hiện đang tạm giam tại trại giam số I – Công an thành phố Hà Nội.
- Bị hại:
+ A Thân Văn N, sinh năm 1999; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đồng Hưu, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Vắng mặt.
+ A Vũ Đức A, sinh năm 1999; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã Chi Lăng, huyện Y, tỉnh Bắc Giang; Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ A Phạm Ánh D, sinh năm 1987; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội 13, thôn Lê D, xã T, huyện ThA Oai, thành phố Hà Nội; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vi Văn H, Hoàng Văn T và Nguyễn Vinh P là bạn bè xã hội. Vào khoảng 02 giờ ngày 30/10/2019, Vi Văn H, Hoàng Văn T và Nguyễn Vinh P chơi game tại quán intenet gần TDP T, Phương CA, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Do cần tiền tiêu xài, T rủ P và H đi trộm cắp tài sản thì P, H đồng ý. Cả nhóm đi lang thang vào khu vực tổ dân phố Nguyên Xá, phường Minh Khai, B, Hà Nội để tìm ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực ở tổ dân phố V, Minh Khai, B, Hà Nội, T phát hiện 01 phòng trọ của A.Thân Văn N, A.Nguyễn Văn Lễ và A.Vũ Đức A đang ngủ trong phòng, đèn vẫn bật sáng, cửa chỉ cài then nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T bảo P và H đứng ngoài ngõ cảnh giới còn T lẻn vào phòng trọ của A N, mở cửa, đi vào trộm cắp được 01 laptop nhãn hiệu Acer màu đen, 01 điện thoại Iphone 7 Plus và 01 ví tiền bên trong có giấy tờ tùy thân và 200.00 đồng của A N; 01 điện thoại Iphone 6 và 01 laptop nhãn hiệu Dell của A Đức A. Sau khi trộm cắp số tài sản trên, T đi ra ngoài, cho 02 điện thoại và ví da vào túi quần, còn 02 laptop T để ở tN xốp đựng rác ở phía ngoài khu trọ rồi gọi Vinh, H vào đưa cho mỗi người 01 laptop. Sau đó, P, T, H cầm số tài sản trộm cắp được đi ra đường 32 tìm nơi tiêu thụ. Một lúc sau, T bảo H đưa chiếc laptop cho T để T cùng P đi bán còn H đi về quán Internet. Sau đó, T và P đi taxi đến cửa hàng cầm đồ tại số 8 đường Quốc Tử Giám, Văn Chương, Đống Đa, Hà Nội bán cho A Phạm Ánh D (SN: 1987, HKTT: Đội 13, thôn Lê D, Tam Hưng, ThA Oai, Hà Nội) 02 lap top và 01 điện thoại Iphone 7 được 10.200.000 đồng, còn chiếc điện thoại Iphone 6 T giữ lại để sử dụng. Số tiền 200.000 đồng lấy được trong ví, T sử dụng để trả tiền taxi. Số tiền bán được, T đưa cho P 7.000.000 đồng rồi cả hai quay về quán Internet Tu Hoàng để đưa cho H 2.500.000 đồng. T và P quay lại quán internet ở Tu Hoàng, P đưa cho H 2.500.000 đồng bảo tiền bán tài sản trộm cắp. Đến khoảng 4 giờ 15 ngày 31/10/2019 khi T và P tiếp tục đi tìm tài sản trộm cắp thì bị tổ công tác Công an phường Minh Khai phát hiện, bắt giữ và thu giữ vật chứng Vật chứng thu giữ:
Của Hoàng Văn T:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng trắng, sim số 03761766**.
- 1.450.000 VNĐ.
Của Nguyễn Vinh P:
- 01 điện thoại Samsung A9 Pro vỏ màu vàng, sim: 05631605**.
- 350.000 VNĐ.
Của Vi Văn H - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, sim số 0366190**, số Imei:
351980105301426.
Của Phạm Ánh D - 01 chiếc lap top nhãn hiệu Acer màu đen, loại Aspire A515 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.
- 01 chiếc laptop nhãn hiệu Dell màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu bạc đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.
Ngày 1/11/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong T hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Vinh P, Vi Văn H, Hoàng Văn T.
Ngày 05/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B đã ra Yêu cầu định giá tài sản số 195 đối với số tài sản Hoàng Văn T, Nguyễn Vinh P, Vi Văn H đã trộm cắp.
Tại Kết luận định giá tài sản số 177 ngày 11/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận B kết luận:
+ 01 máy tính xách tay Acer Aspire A515-53 màu đen, số hiệu NXH7RSV0018480324E6600, không kiểm tra chất lượng bên trong có giá trị 4.000.000 đồng.
+ 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15 màu đen, số hiệu J03Z3P2 có giá trị 4.000.000 đồng.
+ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu gold, 16Gb số Imei:
359263062050555, có giá trị 1.000.000 đồng.
+ 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 32Gb màu trắng bạc, số Imei:
356696081701133 có giá trị 6.000.000 đồng.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Vinh P, Hoàng Văn T và Vi Văn H khai nhận hành vi phạm tội như trên. T khai chỉ trộm cắp 01 ví da bên trong có 200.000 đồng, ngoài ra không trộm cắp ví da của A Lễ trong có 2.700.000 đồng. P khai 01 điện thoại Samsung A9 Pro vỏ màu vàng là tài sản của P, H khai 01 điện thoại Itel là tài sản của H.
Đối với chiếc ví của A Lễ đã trình báo, quá trình điều tra A Lễ khai là bản thân A cũng không nhớ rõ có để ví ở trên bàn vào thời điểm trộm cắp hay không và hiện đã tìm được giấy tờ trong ví, A không yêu cầu gì về dân sự nên không có căn cứ xác định T, P, H đã trộm cắp ví và số tiền 2.700.000 đồng của A Lễ.
A Vũ Đức A không yêu cầu gì đối với chiếc ví và số giấy tờ bị trộm cắp và không có yêu cầu gì về dân sự.
Đối với A Phạm Ánh D khi mua 02 laptop, 01 điện thoại, Vinh, P nói là tài sản của mình. A D không biết là tài sản do trộm cắp mà có. Laptop và điện thoại không có mật khẩu. Ngoài ra cơ quan điều tra không xác định được chứng cứ khác chứng minh A D biết đó là tài sản trộm cắp nên không có căn cứ xử lý đối với A D.
A D không có yêu cầu gì về dân sự.
Ngày 19/11/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B đã trả 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspison, 01 điện thoại di động Iphone 6 cho A Vũ Đức A; 01 máy tính xách tay hiệu Acer Aspire và 01 điện thoại Iphone 7 cho A Thân Văn N. A Đức A, A N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.
Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 13/01/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố Hà Nội đã truy tố Hoàng Văn T về tội Trộm cắp tài sản, theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Truy tố bị cáo Nguyễn Vinh P và Vi Văn H về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại điện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
+ Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Văn T mức án từ 30 đến 36 tháng tù.
+ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Vinh P mức án từ 14 đến 18 tháng tù.
+ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 2 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn H mức án từ 12 đến 16 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì nên không xem xét.
Buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền do phạm tội mà có, số tiền truy nộp: Bị cáo T: 1.950.000 đồng, bị cáo P: 4.150.000 đồng, bị cáo H: 2.500.000 đồng. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận B, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, phù hợp với quy định của pháp luật; bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những căn cứ xác định tội dA: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, kết quả định giá, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 04 giờ ngày 30/10/2019, tại phòng trọ ở TDP V, phường M, quận B, TP.Hà Nội, Hoàng Văn T, Nguyễn Vinh P và Vi Văn H đã trộm cắp 01 máy tính xách tay Acer Aspire A515-53 màu đen có giá trị 4.000.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 7 Plus 32Gb màu trắng bạc, có giá trị 6.000.000 đồng, số tiền 200.000 đồng của A Vũ Đức A; 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15 màu đen có giá trị 4.000.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone 6 màu gold 16Gb có giá trị 1.000.000 đồng của A Thân Văn N. Tổng giá trị tài sản T, P, H đã trộm cắp là 15.400.000 đồng. Tài sản đã thu hồi, trao trả chủ sở hữu. A Đức A, A N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự.
Hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị 15.400.000 đồng như nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo Hoàng Văn T lần phạm tội này của bị cáo thuộc T hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tình tiết định khung tăng nặng điểm g Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự ở khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B, thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đều đã từng bị xử phạt về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng cac bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, cải tạo bản thân mà lại tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra mới có tác dụng và phòng ngừa chung.
Đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò của từng bị cáo, nguyên nhân, điều kiện, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử XÉT THẤY
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Hoàng Văn T giữ vai trò đầu vụ. T là người rủ rê P, H và cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, lần phạm tội này của T thuộc T hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo Hoàng Văn T với mức án cao hơn so với các bị cáo còn lại.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Vinh P và Vi Văn H phạm tội lần này là Tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Hoàng Văn T không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Do các bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Do không có căn cứ xác minh các bị cáo đã trộm cắp tiền và ví của A Nguyễn Văn Lễ, A Lễ cũng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với A Phạm Ánh D do không có căn cứ chứng minh A D biết tài sản mua của T và H là tài sản trộm cắp và A D cũng không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về vật chứng:
+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 1.800.000 đồng là tiền các bị cáo phạm tội mà có. Cơ quan điều tra công an quận B đã thu giữ của các bị cáo T và P.
+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Vinh P: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A9 pro vỏ màu vàng, sim số: 05631605**, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
+ Trả lại cho bị cáo Vi Văn H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Intel, sim số 0366190**, số imei: 351980105301426, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 3.400.000 đồng tiền do phạm tội mà có. Bị cáo đã bị sung quỹ Nhà nước số tiền 1.450.000 đồng. Bị cáo còn phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước tiếp số tiền do phạm tội mà có là 1.950.000 đồng.
Buộc bị cáo Nguyễn Vinh P phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 4.500.000 đồng tiền do phạm tội mà có. Bị cáo đã bị sung quỹ Nhà nước số tiền 350.000 đồng. Bị cáo còn phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước tiếp số tiền do phạm tội mà có là 4.150.000 đồng.
Buộc bị cáo Vi Văn H phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có là 2.500.000 đồng.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T, Nguyễn Vinh P, Vi Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng:
+ Điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Hoàng Văn T 34 (Ba mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2019.
+ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Vinh P 17 (Mười bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2019.
+ Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt vi Văn H 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2019.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền: 1.800.000 đồng cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo T và P do phạm tội mà có.
+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Vinh P: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A9 pro vỏ màu vàng, sim số: 05631605**, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
+ Trả lại cho bị cáo Vi Văn H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Ttel, sim số 0366190**, số imei: 351980105301426, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.
Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có là 1.950.000 đồng.
Buộc bị cáo Nguyễn Vinh P phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có là 4.150.000 đồng.
Buộc bị cáo Vi Văn H phải truy nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có là 2.500.000 đồng.
4. Áp dụng Điều 135; Khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23, Điểm d Khoản 1 Điều 12; Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Văn T, Nguyễn Vinh P, Vi Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 25/2020/HSST ngày 27/02/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 25/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về